SỐ LƯỢT TRUY CẬP

2
3
3
6
1
0
0
0
Báo cáo chuyên đề 17 Tháng Tám 2015 2:05:00 CH

(TTTP) Báo cáo Kết quả triển khai thực hiện Pháp lệnh Bảo vệ bí mật Nhà nước (Phần 2)

 2/ Công tác tuyên truyền giáo dục ý thức chấp hành pháp luật bảo vệ BMNN:

a). Việc tổ chức tuyên truyền, phổ biến Pháp lệnh bảo vệ BMNN và các văn bản liên quan:

Nhận thức được tầm quan trọng của công tác Bảo vệ bí mật Nhà nước trong việc thực hiện nhiệm vụ được Thành ủy, Ủy ban nhân dân thành phố giao, trong thời gian qua lãnh đạo Thanh tra thành phố đã thường xuyên triển khai truyên truyền, quán triệt các văn bản quy phạm pháp luật về các văn bản pháp luật về bảo vệ BMNN đến từng cán bộ, công chức như: Pháp lệnh bảo vệ BMNN năm 2000; Nghị định số 33/2002/NĐ-CP ngày 28/3/2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành pháp lệnh bảo vệ BMNN; Thông tư số 12/2002TT-BCA(A11) ngày 13/9/2002 của Bộ Công an hướng dẫn thực hiện Nghị định 33 của Chính phủ; Quyết định 588/2004/QĐ-BCA(A11) ngày 25/6/2004 của Bộ trưởng Bộ Công an về danh mục bí mật nhà nước độ Mật trong Ngành Thanh tra; Quyết định số 1657/2005/QĐ-TTCP ngày 6/9/2005 của Tổng Thanh tra Chính phủ; Chỉ thị số 05/CT-TTg ngày 21/02/2012 của Thủ tướng Chính phủ về nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác bảo vệ bí mật nhà nước trong tình hình mới; Kế hoạch số 2414/KH-UBND ngày 23/5/2012 của Ủy ban nhân dân thành phố về triển khai thực hiện chỉ thị số 05/CT-TTg ngày 21/02/2012 của Thủ tướng Chính phủ về nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác bảo vệ bí mật nhà nước trong tình hình mới; Công văn số 606/UBND-PCNC-M ngày 10/10/2013 của Ủy ban nhân dân thành phố chỉ đạo, hướng dẫn các sở, ban, ngành và Ủy ban nhân dân các quận, huyện tổ chức chấn chỉnh, khắc phục các tồn tại, thiếu sót trong công tác bảo vệ BMNN theo các nội dung kiến nghị của Thanh tra Bộ Công an; đã được tuyên truyền phổ biến, quán triệt (hình thức: họp từng phòng, tổ để phổ biến quán triệt, trao văn bản để nghiên cứu) đến toàn thể (170/170) cán bộ công chức. Riêng đối với cán bộ lãnh đạo cấp phòng, thanh tra viên và cán bộ mà công việc thường xuyên tiếp xúc bí mật nhà nước và phóng viên báo chí còn được lãnh đạo thường xuyên nhắc nhở tại các hội nghị sơ kết, tổng kết, các cuộc họp giao ban, họp rút kinh nghiệm.

b). Đánh giá ưu khuyết điểm của công tác này.

Ưu điểm: Kết quả triển khai, quán triệt đã nâng cao tinh thần cảnh giác, ý thức giữ bí mật nhà nước của cán bộ, công chức. Lãnh đạo Thanh tra thành phố tổ chức triển khai quán triệt, thực hiện nghiêm túc các quy định của Đảng, Chính phủ, Bộ Công an và của Ủy ban nhân dân thành phố về công tác bảo vệ BMNN. Ý thức, trách nhiệm bảo vệ bí mật nhà nước của cán bộ, công chức được nâng lên; Từ đó 100% cán bộ, công chức nắm vững và chấp hành tốt các quy định của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước, không để xảy ra tình trạng làm lộ, lọt, mất thông tin, tài liệu, vật mang bí mật nhà nước tại cơ quan đơn vị mình

Khuyết điểm: Tuy nhiên trong quá trình thực hiện vẫn còn một số cán bộ, công chức do nhận thức chưa đầy đủ ý nghĩa tầm quan trọng của công tác bảo vệ BMNN, do đó vẫn còn có hiện tượng sử dụng các thiết bị lưu trữ di động (USB) để chứa thông tin, tài liệu BMNN (các dự thảo KLTT, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng chống tham nhũng,…), soạn thảo văn bản có nội dung BMNN trên máy vi tính đã nối mạng internet.

3/ Công tác tổ chức thực hiện các qui định cụ thể của pháp luật về bảo vệ BMNN:

a). Việc quản lý tin, tài liệu và vật mang BMNN:

Việc chấp hành các quy định của pháp luật trong công tác quản lý tin, tài liệu, vật mang bí mật nhà nước được cơ quan thực hiện khá đầy đủ, điển hình như:

- Lãnh đạo Thanh tra thành phố thường xuyên quán triệt, nhắc nhở cán bộ, công chức nâng cao ý thức cảnh giác bảo vệ bí mật, quản lý chặt chẽ không để lọt, lộ tài liệu mật, thông tin, tài liệu liên quan đến hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng chống tham nhũng đang trong thời gian xác minh, thanh - kiểm tra, các kết luận thanh tra chưa hoặc không công bố, các tin, tài liệu mật do cơ quan khác gửi đến cơ quan thanh tra…Không cung cấp, để lộ thông tin nội bộ của cơ quan Thanh tra thành phố và ngành Thanh tra đang trong quá trình xử lý. Không cung cấp thông tin cho các tổ chức, cá nhân nước ngoài khi chưa được cấp có thẩm quyền cho phép.

- Cơ quan có lập sổ theo dõi tài liệu mật đi, tài liệu mật đến và sổ giao nhận tài liệu mật. Tất cả các loại tài liệu mật đi, tài liệu mật đến đều được vào sổ đầy đủ. Nội dung các sổ theo dõi được ghi đầy đủ thông tin, cột mục theo quy định như: Số thứ tự, ngày tháng năm, nơi nhận, trích yếu nội dung văn bản, độ mật, độ khẩn, người ký, ghi chú …khi giao nhận tài liệu mật có sự ký nhận giữa các bên và bên giao vào sổ ghi nhận tài liệu mật.

- Công tác phân loại, bảo quản, lưu trữ tài liệu mật cũng được cơ quan thực hiện khá tốt, từ khâu phân loại theo từng độ mật và theo trình tự thời gian cho đến khâu đóng vào bìa, thống kê theo từng năm và đưa vào tủ lưu trữ hồ sơ đúng theo quy định.

- Các tin, tài liệu mật được soạn thảo trên máy tính không có kết nối mạng Internet và được đóng dấu mật đúng quy định. Các văn bản có chứa nội dung bí mật nhà nước được lưu dưới dạng các file có cài mã khóa bảo vệ (Password). Việc in, sao, chụp tài liệu, vật mang bí mật nhà nước được tiến hành ở nơi an toàn, đảm bảo bí mật và đúng số lượng đã được thủ trưởng cơ quan, đơn vị quy định.

- Tài liệu, vật mang bí mật nhà nước được phổ biến, nghiên cứu đúng đối tượng và phạm vi cần phổ biến, nghiên cứu. Việc phổ biến, nghiên cứu được tổ chức nơi đảm bảo bí mật, an toàn. Khi cần trích xuất tài liệu đã được lưu trữ, cán bộ, thanh tra viên phải làm đề xuất trình Chánh thanh tra hoặc Phó Chánh thanh tra phụ trách duyệt. Tài liệu, vật mang bí mật nhà nước khi vận chuyển đều được đựng trong phong bì có hai lớp chắc chắn và được niêm phong cẩn thận. Riêng đối với các thông tin, tài liệu mật được truyền bằng các file qua mạng đều được mã hoá theo quy định của Ban Cơ yếu Chính phủ, Ủy ban nhân dân thành phố.

- Việc phát ngôn và cung cấp thông tin về hoạt động thanh tra cho các cơ quan hữu quan, cơ quan thông tin đại chúng được thực hiện cẩn trọng trên cơ sở những nguyên tắc, quy định của Pháp lệnh bảo vệ BMNN; Nội dung công văn 648/VPCP-QTTV ngày 14/8/2006 của Văn phòng Chính phủ về đảm bảo an ninh thông tin sử dụng điện thoại, Internet; theo Quy chế phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí và phải được Chánh Thanh tra phê duyệt trước khi cung cấp. Cán bộ công chức thuộc Thanh tra thành phố trả lời phỏng vấn cơ quan thông tin đại chúng về những vấn đề thuộc phạm vi chức năng, nhiệm vụ của ngành Thanh tra phải theo sự phân công, chỉ đạo của Chánh thanh tra.

- Thường xuyên duyệt, kiểm tra nội dung thông tin đăng trên trang thông tin điện tử (website) của Thanh tra thành phố; tuyển chọn, bố trí cán bộ vào các bộ phận thiết yếu cơ mật đảm bảo phẩm chất chính trị và yêu cầu chuyên môn; không để sơ hở, thiếu sót dẫn đến lộ lọt BMNN.

- Việc tiêu hủy, tài liệu, vật mang bí mật nhà nước được cơ quan thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.

b). Công tác bố trí, quản lý cán bộ làm công tác bảo vệ BMNN và xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ công tác bảo vệ BMNN:

- Cán bộ làm công tác liên quan trực tiếp đến bí mật nhà nước được lãnh đạo cơ quan quan tâm tuyển chọn những cán bộ công chức có phẩm chất đạo đức tốt, có tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật, ý thức cảnh giác giữ gìn bí mật nhà nước, có lý lịch rõ ràng; có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và năng lực hoàn thành nhiệm vụ được giao.

- Công tác xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ công tác bảo vệ bí mật nhà nuớc được cơ quan quan tâm thực hiện. Cụ thể cơ quan đã trang bị tủ sắt, két sắt để lưu giữ, bảo quản tài liệu, vật mang bí mật nhà nước; xây dựng phòng cách ly để làm nơi in ấn, sao chụp tài liệu, vật mạng bí mật nhà nước; kho lưu trữ tài liệu mật được trang bị các bình chữa cháy xách tay, hệ thống điện luôn được kiểm tra thường xuyên đảm bảo về  phòng cháy và chữa cháy.

- Cơ quan bố trí khu vực in sao tài liệu tách biệt với khu vực văn thư, lưu trữ và bố trí 01 máy huỷ tài liệu bên cạnh để huỷ các tài liệu, hồ sơ không cần thiết, đảm bảo tài liệu sau khi huỷ không thể sử dụng lại được.

- Tám loại con dấu liên quan đến bảo mật được trang bị đầy đủ, cùng với con dấu cơ quan được giao cho 01 cán bộ văn thư chuyên trách (là đảng viên) quản lý, sử dụng đúng quy định. Vào cuối giờ hành chính, các con dấu được cất giữ trong tủ két sắt có khoá cẩn thận do chính cán bộ văn thư bảo quản chịu trách nhiệm.

c). Việc thực hiện chế độ cáo cáo về công tác bảo vệ BMNN:

Chế độ thông tin, báo cáo về công tác bảo vệ bí mật nhà nước được cơ quan thực hiện tốt theo quy định của Thường trực Ban chỉ đạo thực hiện pháp lệnh bảo vệ BMNN đầy đủ nội dung và đúng thời gian quy định.

d). Về kiểm tra việc thực hiện bảo vệ BMNN:

Trong năm 2015, Lãnh đạo Thanh tra thành phố không thành lập đoàn kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về bảo vệ BMNN đối với các phòng chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Thanh tra thành phố. Tuy nhiên, lãnh đạo Thanh tra thành phố phổ biến, quán triệt thông qua các hình thức như: thông qua các cuộc họp cơ quan, lãnh đạo đã thường xuyên nhắc nhở, kiểm tra, chỉ đạo việc thực hiện các quy định của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước cho cán bộ, công chức; định kỳ tổ chức kiểm tra việc thực hiện hệ thống quản lý chất lượng ISO, thông qua việc kiểm tra công tác chuyên môn 6 tháng, lồng ghép thêm nội dung thực hiện bảo vệ BMNN đối với các phòng chuyên môn, nghiệp vụ; thường xuyên kiểm tra đột xuất các nội dung liên quan đến bảo vệ bí mật nhà nước đối với một số cán bộ công chức cơ quan trong khi thi hành nhiêm vụ. Việc kiểm tra thường xuyên và đột xuất đã giúp nâng cao ý thức trách nhiệm trong việc bảo vệ bí mật nhà nước của cán bộ công chức cơ quan. Định kỳ hàng năm cơ quan tổ chức kiểm tra công tác bảo vệ bí mật nhà nước do lực lượng chuyên trách của cơ quan thực hiện. Nhìn chung cán bộ, công chức thực hiện tốt các quy định của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước nên không để xảy ra trường hợp nào làm mất, lộ, lọt thông tin bí mật của nhà nước tại cơ quan.


Số lượt người xem: 4726    

TIN MỚI HƠN

TIN ĐÃ ĐƯA

Tìm kiếm