Ngày 26 tháng 11 năm 2013, tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII đã thông qua Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Luật được Chủ tịch nước ký Lệnh công bố số 21/2013/L-CTN ngày 09 tháng 12 năm 2013. Luật có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 07 năm 2014.
Phòng Pháp chế phối hợp với Chi hội Luật gia Thanh tra thành phố giới thiệu một số nội dung cơ bản của Luật như sau:
I. SỰ CẦN THIẾT SỬA ĐỔI LUẬT THỰC HÀNH TIẾT KIỆM, CHỐNG LÃNG PHÍ
Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí được ban hành từ năm 2005 đã tạo được khung pháp lý có giá trị cao và đồng bộ về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí (THTK, CLP), tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai THTK, CLP của các cấp, các ngành, các cơ quan, tổ chức, đơn vị và nhân dân. Theo đó, đã có những chuyển biến tích cực trong nhận thức về THTK, CLP của các cấp, các ngành và toàn thể nhân dân trong lao động, sản xuất và đời sống. Các Bộ ngành, địa phương, các cơ quan, đơn vị đã xây dựng và ban hành các chương trình, kế hoạch công tác đưa việc tổ chức triển khai thực hiện THTK, CLP thành một nội dung của hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên, đưa kết quả THTK, CLP thành tiêu chí xem xét, đánh giá chất lượng cán bộ, đảng viên. Tuy nhiên, thực tế thi hành Luật cho thấy tình trạng lãng phí vẫn xảy ra trên nhiều lĩnh vực, chưa được ngăn chặn triệt để, cụ thể như sau:
- Trong quản lý, sử dụng kinh phí NSNN chi thường xuyên: Một số cơ quan, đơn vị, vẫn còn tình trạng chi vượt định mức, tiêu chuẩn, chế độ hoặc sử dụng kinh phí sai mục đích; không thực hiện nghiêm túc việc quản lý, sử dụng kinh phí theo quy định của cơ quan có thẩm quyền dẫn đến lãng phí hoặc sử dụng không hiệu quả kinh phí NSNN được giao làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, làm giảm hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước.
- Trong quản lý đầu tư xây dựng các dự án sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước: Việc quản lý và triển khai thực hiện các dự án đầu tư trong những năm qua còn nhiều hạn chế, yếu kém, thất thoát, lãng phí xảy ra ở hầu hết các giai đoạn của quá trình đầu tư, dẫn đến hiệu quả đầu tư thấp.
- Trong quản lý, sử dụng đất đai, trụ sở làm việc, nhà công vụ: Tình trạng sử dụng nhà đất không đúng mục đích, bị lấn chiếm hoặc để hoang hóa, khai thác không hết công năng hoặc sai mục đích vẫn còn tồn tại. Một số nơi buông lỏng quản lý dẫn đến tình trạng giao đất, cho thuê đất nhưng không sử dụng, để lãng phí. Tình trạng giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất sai quy định, không đúng đối tượng, không đúng thẩm quyền dẫn đến khiếu kiện đông người vẫn còn xảy ra. Quy hoạch “treo” vẫn còn ở nhiều địa phương gây lãng phí lớn nhưng chậm được khắc phục.
- Trong quản lý, sử dụng lao động và thời gian lao động trong khu vực nhà nước: Vẫn còn cơ quan, đơn vị trong bộ máy nhà nước chưa đạt hiệu quả cao trong quản lý nhà nước. Đội ngũ cán bộ công chức có nơi chất lượng chưa cao, hiệu quả quản lý, sử dụng chưa đạt yêu cầu. Vẫn còn không ít cơ quan, tổ chức chưa có quy chế nội bộ về quản lý thời gian lao động, sắp xếp công việc thiếu khoa học, hợp lý dẫn đến hiệu quả sử dụng thời gian lao động thấp.
- Trong sản xuất và tiêu dùng của nhân dân: Trong việc tổ chức lễ hội và các hoạt động khác có sử dụng nguồn lực đóng góp của cộng đồng tình trạng lãng phí vẫn còn diễn ra.
Nguyên nhân của tình trạng trên là:
+ Công tác tổ chức thực hiện Luật nhiều khi chưa được quan tâm thực hiện nghiêm túc; một số bộ, ngành địa phương chưa thực sự tự giác trong việc xây dựng các giải pháp để triển khai việc THTK, CLP trong lĩnh vực, phạm vi được giao quản lý. Trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc thực hiện các biện pháp THTK,CLP có nơi, có lúc chưa được đề cao. Công tác giám sát của các cơ quan dân cử, của các tổ chức xã hội và hiệp hội nghề nghiệp, nhất là giám sát của nhân dân chưa được phát huy, hiệu quả thấp.
+ Hệ thống định mức kinh tế, kỹ thuật và tiêu chuẩn, chế độ trong việc sử dụng vốn và tài sản nhà nước đã được cập nhật, sửa đổi, bổ sung khá thường xuyên tuy nhiên vẫn còn chưa sát với thực tế.
+ Chưa có quy định cụ thể hành vi gây lãng phí, chưa có cơ chế, biện pháp hiệu quả trong triển khai THTK, CLP, việc triển khai Luật vào cuộc sống còn hạn chế.
+ Công tác thanh tra, kiểm tra về thực hành tiết kiệm chống lãng phí tại các cấp các ngành chưa được thực hiện thường xuyên, liên tục và có hiệu quả. Các quy định về thanh tra, kiểm tra, trong THTK, CLP còn chưa cụ thể nên làm hạn chế tính hiệu lực, hiệu quả trong triển khai Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
+ Một số quy định của Luật chưa cập nhật với các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành trong thời gian qua. Kể từ khi Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí ban hành và có hiệu lực (1/6/2006), Quốc hội đã ban hành nhiều Luật mới có liên quan, đã làm cho các quy định trong Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trở nên khó triển khai thực hiện, phát sinh nhu cầu phải sửa đổi cho phù hợp để đảm bảo tính đồng bộ của hệ thống pháp luật. Bên cạnh đó, một số quy định của Luật còn chung chung, mang tính hình thức, chưa đưa ra được các giải pháp THTK, CLP cụ thể. Đồng thời, phạm vi điều chỉnh của Luật cũng chưa bao quát được hết một số lĩnh vực như quản lý sử dụng tài sản nhà nước; quản lý, sử dụng các loại tài nguyên; quản lý, sử dụng các quỹ có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước.
Do đó, việc ban hành Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí thay thế Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2005 là cần thiết.
II. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG LUẬT THỰC HÀNH TIẾT KIỆM, CHỐNG LÃNG PHÍ
1. Kế thừa những nội dung, quy định của Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí 2005 còn phù hợp; Luật hóa các quy định dưới Luật đã được thực hiện ổn định, có hiệu quả.
2. Làm rõ hơn các quy định về chống lãng phí; lấy chống lãng phí làm trọng tâm trên cơ sở thực hiện tốt thực hành tiết kiệm xuyên suốt trong các quy định của Luật và trong cơ chế tổ chức điều hành, thực thi Luật.
3. Sửa đổi các nội dung và các điều luật theo hướng gia tăng các quy định về cơ chế, giải pháp, biện pháp cụ thể về THTK, CLP; bổ sung, cụ thể hóa các quy định về thanh tra, kiểm tra, kiểm toán nhằm tăng tính hiệu quả, hiệu lực của các biện pháp THTK, CLP; bổ sung làm rõ các hành vi vi phạm để có chế tài xử lý tăng tính khả thi trong thực hiện Luật.
4. Cập nhật hệ thống pháp luật, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ với các văn bản pháp luật liên quan; bảo đảm tính minh bạch và thuận lợi trong tổ chức thực hiện.
III. BỐ CỤC VÀ NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT
1. Bố cục của Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí
Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2013 gồm 5 chương 80 Điều, trong đó quy định việc thực hành tiết kiệm trong các lĩnh vực tập trung tại Chương II, cụ thể như sau:
- Chương I: Quy định chung, gồm 10 điều (từ Điều 1 đến Điều 10)
Nội dung Chương này quy định về: Phạm vi điều chỉnh; đối tượng áp dụng; giải thích từ ngữ; nguyên tắc THTK, CLP; công khai về THTK, CLP; giám sát về THTK, CLP; trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức trong việc THTK, CLP; trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức trong việc THTK, CLP; phát hiện lãng phí và trách nhiệm xử lý thông tin phát hiện lãng phí; kiểm tra, thanh tra, kiểm soát chi, kiểm toán nhà nước.
- Chương II: Quy định về THTk, CLP trong một số lĩnh vực gồm 8 mục và 56 điều (từ Điều 11 đến Điều 66), cụ thể như sau:
+ Mục 1: THTK, CLP trong việc ban hành, thực hiện định mức, tiêu chuẩn, chế độ.
Mục này gồm 6 điều (từ Điều 11 đến Điều 16). Mục này quy định về: Hệ thống định mức, tiêu chuẩn, chế độ; nguyên tắc ban hành định mức, tiêu chuẩn, chế độ; trách nhiệm trong ban hành, thực hiện và kiểm tra việc thực hiện định mức, tiêu chuẩn, chế độ; hành vi vi phạm trong ban hành, thực hiện và kiểm tra định mức, tiêu chuẩn, chế độ.
+ Mục 2: THTK, CLP trong lập, thẩm định, phê duyệt dự toán, quyết toán, quản lý, sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước.
Mục này gồm 11 điều (từ Điều 17 đến Điều 27) quy định về THTK, CLP trong: Lập, thẩm định, phê duyệt, phân bổ dự toán, quyết toán ngân sách nhà nước; quản lý, sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước; quản lý, sử dụng kinh phí chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình quốc gia; quản lý, sử dụng kinh phí thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, y tế; thành lập, quản lý, sử dụng quỹ có nguồn từ ngân sách nhà nước; THTK, CLP trong một số trường hợp sử dụng ngân sách nhà nước; giao tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính cho các cơ quan, tổ chức; hành vi gây lãng phí trong lập, thẩm định, phê duyệt, phân bổ, giao dự toán, quyết toán, quản lý, sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước.
+ Mục 3: THTK, CLP trong mua sắm, sử dụng phương tiện đi lại và phương tiện, thiết bị làm việc của cơ quan, tổ chức trong khu vực nhà nước.
Mục này gồm 5 điều (từ Điều 28 đến Điều 32) quy định về THTK, CLP trong: mua sắm; trang bị, sửa chữa phương tiện đi lại; quản lý, sử dụng phương tiện đi lại; mua sắm, trang bị, quản lý, sử dụng phương tiện, thiết bị làm việc, phương tiện thông tin, liên lạc và các hành vi gây lãng phí trong mua sắm, trang bị, quản lý, sử dụng phương tiện đi lại, phương tiện, thiết bị làm việc và phương tiện thông tin liên lạc.
+ Mục 4: THTK, CLP trong đầu tư xây dựng; quản lý, sử dụng trụ sở làm việc, nhà ở công vụ và công trình phúc lợi công cộng
Mục này gồm 13 Điều (từ Điều 33 đến Điều 45) quy định về THTK, CLP trong: lập, thẩm định, phê duyệt quy hoạch, kế hoạch và danh mục dự án đầu tư, dự án đầu tư; khảo sát, thiết kế xây dựng công trình; lập, thẩm định, phê duyệt tổng dự toán, dự toán công trình; lựa chọn nhà thầu, tổ chức tư vấn giám sát thực hiện dự án đầu tư; thực hiện dự án đầu tư, thi công công trình; quản lý, sử dụng vốn đầu tư xây dựng; tổ chức lễ động thổ, lễ khởi công, lễ khánh thành công trình xây dựng; quản lý, sử dụng trụ sở làm việc, cơ sở hoạt động sự nghiệp, nhà ở công vụ, công trình phúc lợi công cộng và hành vi lãng phí trong đầu tư xây dựng, quản lý, sử dụng trụ sở làm việc, nhà ở công vụ và công trình phúc lợi công cộng.
+ Mục 5: THTK, CLP trong quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên
Mục này gồm 6 điều (từ Điều 46 đến Điều 53) quy định về: nguyên tắc THTK, CLP trong quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên; THTK, CLP trong quản lý, sử dụng đất, tài nguyên nước, khoáng sản, tài nguyên rừng và tài nguyên khác; sử dụng tài nguyên tái chế và các nguồn năng lượng tái tạo; hành vi gây lãng phí trong quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên.
+ Mục 6: THTK, CLP trong tổ chức bộ máy, quản lý, sử dụng lao động và thời gian lao động trong khu vực nhà nước
Mục này gồm 5 điều (từ Điều 54 đến Điều 58) quy định về: nguyên tắc THTK, CLP trong quản lý, sử dụng lao động và thời gian lao động; THTK, CLP trong quản lý, sử dụng lao động và thời gian lao động trong cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập và trong các cơ quan, tổ chức khác; hành vi gây lãng phí trong quản lý, sử dụng lao động, thời gian lao động trong khu vực nhà nước.
+ Mục 7: THTK, CLP trong quản lý, sử dụng vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp
Mục này gồm 4 điều (từ Điều 59 đến Điều 62) quy định về THTK, CLP trong quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp; quản lý, sử dụng đất và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp; THTK, CLP tại doanh nghiệp nhà nước; hành vi gây lãng phí trong quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp.
+ Mục 8: THTK, CLP trong hoạt động sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng của nhân dân
Mục này gồm 4 điều (từ Điều 63 đến Điều 66) quy định về: nguyên tắc THTK, CLP trong hoạt động sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng của nhân dân; THTK, CLP trong đầu tư xây dựng, sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng của nhân dân; THTK, CLP trong tổ chức lễ hội và các hoạt động khác có sử dụng nguồn lực đóng góp của cộng đồng; tổ chức thực hiện quy định về THTK, CLP trong hoạt động sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng của nhân dân
- Chương III: Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức trong THTK, CLP, gồm 12 Điều (từ Điều 67 đến Điều 75)
Chương này quy định về trách nhiệm trong THTK, CLP của Chính phủ, Bộ Tài chính, bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; cơ quan thanh tra; Kiểm toán nhà nước; cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân.
- Chương IV: Khiếu nại, tố cáo, khen thưởng và xử lý vi phạm gồm 3 điều (từ Điều 76 đến Điều 78)
- Chương V: Điều khoản thi hành gồm 2 điều (Điều 79 và Điều 80) quy định về hiệu lực thi hành và quy định chi tiết Luật
Như vậy, so với Luật năm 2005 (gồm 11 chương, 86 điều), Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2013 giảm 6 chương và 6 Điều. Việc giảm số chương, điều nói trên là kết quả của rà soát, xử lý những nội dung trùng lặp tại Luật hiện hành.
2. Nội dung cơ bản của Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí
2.1. Về phạm vi và đối tượng điều chỉnh
- Về phạm vi điều chỉnh:
Luật năm 2005 quy định về THTK, CLP trong quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước, tiền, tài sản nhà nước, lao động, thời gian lao động trong khu vực nhà nước, tài nguyên thiên nhiên và THTK, CLP trong sản xuất và tiêu dùng của nhân dân. Trên cơ sở kế thừa các quy định của Luật năm 2005, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2013 đã kết cấu lại và làm rõ hơn phạm vi điều chỉnh về: THTK, CLP trong quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước, vốn nhà nước, tài sản nhà nước, lao động, thời gian lao động trong khu vực nhà nước; THTK, CLP trong quản lý, khai thác và sử dụng tài nguyên; THTK, CLP trong hoạt động sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân (Điều 1).
- Về đối tượng áp dụng:
Tương ứng với phạm vi điều chỉnh, Luật năm 2013 quy định đối tượng áp dụng gồm 3 nhóm đối tượng là: cơ quan, tổ chức, cá nhân quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước, vốn nhà nước, tài sản nhà nước, lao động trong khu vực nhà nước; cơ quan, tổ chức, cá nhân quản lý, khai thác và sử dụng tài nguyên; tổ chức, hộ gia đình và cá nhân khác (Điều 2).
2.2. Về nguyên tắc THTK, CLP
Trên cơ sở kế thừa quy định về nguyên tắc THTK, CLP của luật trước, tại Điều 4 Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2013 đã bổ sung, làm rõ nguyên tắc THTK, CLP: THTK, CLP là nhiệm vụ thường xuyên từ chủ trương, đường lối, cơ chế chính sách đến tổ chức thực hiện gắn với kiểm tra, giám sát (Khoản 1 Điều 4); THTK, CLP phải gắn với cải cách hành chính và bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao, không để ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của cơ quan, đơn vị (Khoản 3 Điều 4).
2.3. Công khai về THTK, CLP
Luật năm 2005 chỉ quy định về lĩnh vực công khai, hình thức công khai, Luật năm 2013 đã bổ sung việc quy định xác định công khai trong quản lý ngân sách nhà nước, vốn, tài sản, lao động, thời gian lao động và các nguồn tài nguyên là biện pháp để bảo đảm THTK, CLP (Khoản 1 Điều 5).
Đồng thời, để tạo điều kiện cho việc giám sát THTK, CLP cũng như tăng tính nghiêm minh trong thực thi pháp luật, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2013 đã bổ sung quy định công khai kết quả thực hành tiết kiệm; hành vi lãng phí và kết quả xử lý hành vi lãng phí tại Điểm g Khoản 2 Điều 5: “Chương trình, kế hoạch THTK, CLP; kết quả thực hành tiết kiệm; hành vi lãng phí và kết quả xử lý hành vi lãng phí”.
2.4. Về định mức, tiêu chuẩn, chế độ làm căn cứ thực hiện THTK, CLP
Để khắc phục các mặt hạn chế liên quan đến việc ban hành định mức, tiêu chuẩn, chế độ làm căn cứ thực hiện THTK, CLP những năm qua, xác định định mức, tiêu chuẩn, chế độ làm căn cứ THTK, CLP, căn cứ để kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực hành tiết kiệm chống lãng phí cho phù hợp với tình hình và cơ chế chính sách hiện nay, Luật năm 2013 đã sửa đổi, bổ sung làm rõ 3 nhóm định mức, tiêu chuẩn, chế độ (Điều 11), bao gồm: định mức, tiêu chuẩn, chế độ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo quy định của pháp luật, áp dụng chung trong cả nước hoặc trong phạm vi ngành, lĩnh vực, địa phương; định mức, tiêu chuẩn, chế độ do cơ quan, tổ chức được giao quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước, vốn nhà nước, tài sản nhà nước, lao động và thời gian lao động trong khu vực nhà nước và các nguồn tài nguyên ban hành theo thẩm quyền; định mức, tiêu chuẩn, chế độ quy định tại quy chế chi tiêu nội bộ của cơ quan, tổ chức được xây dựng và ban hành đúng pháp luật.
Theo đó, hệ thống định mức, tiêu chuẩn không chỉ là định mức, tiêu chuẩn, chế độ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành mà còn là định mức, tiêu chuẩn do cơ quan, tổ chức, cá nhân được giao quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước, vốn nhà nước, tài sản nhà nước.
2.5. Về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức và của cán bộ công chức, viên chức
Trên cơ sở kế thừa Luật trước đây, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2013 đã quy định cụ thể về trách nhiệm của người đứng đầu và cán bộ, công chức, viên chức. Đặc biệt, Luật năm 2013 đã bổ sung trách nhiệm giải trình trước về việc xảy ra lãng phí trong cơ quan, tổ chức mình (Khoản 3 Điều 7); giải trình và chịu trách nhiệm cá nhân về việc để xảy ra lãng phí thuộc phạm vi quản lý, sử dụng của cán bộ, công chức, viên chức (Khoản 2 Điều 8).
Đồng thời, Luật năm 2013 cũng quy định cụ thể về các trường hợp phải xử lý vi phạm và bồi thường thiệt hại, trong đó, cơ quan, tổ chức, cá nhân, người đứng đầu có hành vi vi phạm, để xảy ra lãng phí ngoài trách nhiệm giải trình còn có thể bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự. Trách nhiệm liên đới cũng được đặt ra với người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị cấp trên nếu để xảy ra lãng phí trong cơ quan, tổ chức, đơn vị cấp dưới và trong đơn vị cấp phó của mình trực tiếp phụ trách (Điều 78).
2.6. Về phát hiện lãng phí và trách nhiệm xử lý thông tin phát hiện lãng phí
Đây được coi là điểm mới quan trọng trong Luật năm 2013, tạo cơ chế khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia phát hiện và cung cấp kịp thời các thông tin về lãng phí góp phần ngăn chặn lãng phí cũng như để xác định trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc để xảy ra lãng phí. Thông tin phát hiện lãng phí dưới mọi hình thức phải được người đứng đầu cơ quan, tổ chức nơi có lãng phí xem xét, xử lý, khắc phục kịp thời và thực hiện việc giải trình về việc để xảy ra lãng phí (Điều 9).
2.7. Về THTK, CLP trong từng lĩnh vực
Luật năm 2005 lấy việc THTK, CLP trong khu vực nhà nước làm trọng tâm, từ đó mở rộng quy định việc THTK, CLP đối với các nguồn lực khác mà pháp luật chuyên ngành còn thiếu hoặc chưa bao quát hết. Theo đó, Luật đã dành 7 Chương (56 Điều) tương ứng với 7 lĩnh vực cụ thể để điều chỉnh. Việc quy định như vậy làm cho Luật trở nên dàn trải và trùng lắp. Để khắc phục nhược điểm này, Luật năm 2013 đã kết cấu lại theo hướng tập trung vào một Chương (Chương II) gồm 8 Mục và 56 điều, với đồng bộ các quy định về cơ chế, biện pháp THTK, CLP, trách nhiệm THTK, CLP và các chế tài cụ thể đối với các hoạt động, các đối tượng liên quan đến yêu cầu THTK, CLP.
- Ngoài ra, Luật năm 2013 đã bổ sung quy định về quản lý, sử dụng kinh phí thực hiện nhiệm vụ giáo dục và đào tạo và nhiệm vụ y tế (Điều 22, Điều 23) là những lĩnh vực dễ xảy ra lãng phí trong thực tế và quy định về thực hành tiết kiệm chống lãng phí trong quản lý, sử dụng quỹ có nguồn từ ngân sách nhà nước để tăng cường hiệu quả, tiết kiệm trong việc sử dụng nguồn kinh phí này, hạn chế tối đa bằng việc quy định cụ thể việc thành lập quỹ có nguồn từ ngân sách nhà nước (Điều 24).
- Đối với các hoạt động phải thực hiện yêu cầu quản lý phù hợp với mục tiêu THTK, CLP như tổ chức hội nghị, hội thảo, toạ đàm; cử cán bộ, công chức, viên chức đi công tác; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; sử dụng điện, nước; sử dụng văn phòng phẩm, sách báo, tạp chí; tiếp khách, khánh tiết, lễ hội, lễ kỷ niệm thay vì dành từng điều riêng quy định đối với mỗi hoạt động như Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2005, Luật mới đã tập trung vào 1 điều (Điều 25) để quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị trong quản lý, sử dụng các hoạt động này, đặc biệt đưa ra quy định hàng năm đơn vị phải thực hiện kiểm toán nội bộ đối với các khoản chi tiêu liên quan đến các hoạt động này để tăng tính hiệu quả, hiệu lực của Luật.
2.8. Về hành vi gây lãng phí
Trong Luật trước, các hành vi gây lãng phí không được quy định trực tiếp, gây khó khăn cho việc áp dụng Luật trong thực tiễn. Luật năm 2013 đã bổ sung quy định về hành vi gây lãng phí một cách tương đối đầy đủ và toàn diện trong các lĩnh vực cụ thể: hành vi vi phạm trong ban hành, thực hiện và kiểm tra định mức, tiêu chuẩn, chế độ (Điều 16); hành vi gây lãng phí trong lập, thẩm định, phê duyệt, phân bổ, giao dự toán, quyết toán, quản lý, sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước (Điều 27); hành vi gây lãng phí trong mua sắm, trang bị, quản lý, sử dụng phương tiện đi lại, phương tiện, thiết bị làm việc và phương tiện thông tin, liên lạc (Điều 32); hành vi gây lãng phí trong đầu tư xây dựng, quản lý, sử dụng trụ sở làm việc, nhà ở công vụ và công trình phúc lợi công cộng (Điều 45); hành vi gây lãng phí trong quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên (Điều 53); hành vi gây lãng phí trong quản lý, sử dụng lao động, thời gian lao động trong khu vực nhà nước (Điều 58); hành vi gây lãng phí trong quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp (Điều 62).
Những quy định này giúp cho việc nhận diện hành vi gây lãng phí thuận lợi hơn, đưa công tác chống lãng phí đi vào thực chất, hiệu quả.
2.9. Về cơ chế triển khai THTK, CLP
a) Xác định rõ mục tiêu, chỉ tiêu tiết kiệm, yêu cầu chống lãng phí
Luật năm 2013 đã quy định rõ việc xác định mục tiêu, chỉ tiêu tiết kiệm và yêu cầu chống lãng phí chung trên cả nước gắn với kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội trong chương trình tổng thể về THTK, CLP hàng năm và dài hạn (Điều 67), đồng thời đặt ra yêu cầu trong THTK, CLP của các Bộ ngành, UBND các cấp cũng phải xác định rõ mục tiêu, chỉ tiêu, tiêu chí đánh giá thực hành tiết kiệm chống lãng phí thuộc phạm vi, lĩnh vực quản lý ( Điều 69 và Điều 71). Việc quy định cụ thể các mục tiêu, chỉ tiêu và yêu cầu chống lãng phí trong Chương trình hành động là cần thiết, khắc phục được tình trạng bất cập của quy định trong Luật cũ là Chương trình THTK, CLP chỉ mang tính định tính, thiếu giải pháp, biện pháp cụ thể do chưa có định lượng rõ ràng. Việc bổ sung các mục tiêu, chỉ tiêu và yêu cầu chống lãng phí trong chương trình vừa là cơ sở cho việc thực hiện chương trình, đồng thời là cơ sở để đánh giá kết quả thực hiện các chương trình THTK, CLP tại từng cơ quan, đơn vị, tổ chức kinh tế. Đây là vấn đề có tính chất cốt lõi trong việc đổi mới cơ chế tổ chức điều hành THTK, CLP qua đó, sẽ đánh giá được hiệu quả, kết quả cụ thể của từng địa phương, ngành, lĩnh vực và của cả nước.
- Ngoài ra, khắc phục nhược điểm của Luật năm 2005 trong quy định trách nhiệm của Bộ, ngành, Luật năm 2013 chỉ quy định rõ trách nhiệm của Bộ Tài chính (Điều 68) là cơ quan chủ trì giúp Chính phủ thống nhất triển khai hướng dẫn các quy định của Luật còn trách nhiệm của tất cả các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ được tập trung quy định tại một điều để tránh tình trạng vừa thừa, vừa thiếu.
b) Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán
Để nâng cao vai trò giám sát, thanh tra, kiểm toán, ngoài quy định chung tại Điều 6, Điều 10, Luật năm 2013 còn có một số điều quy định cụ thể về trách nhiệm của Mặt trận tổ quốc và các thành viên (Điều 72), trách nhiệm của cơ quan thanh tra (Điều 73), trách nhiệm của Kiểm toán Nhà nước (Điều 74), trách nhiệm của cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát nhân dân, Toà án nhân dân (Điều 75). Theo đó, Luật năm 2013 đã khắc phục kịp thời những tồn tại của Luật năm 2005 và hoàn thiện cơ chế đấu tranh chống các hành vi gây lãng phí thông qua việc tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, bổ sung quy định đối với các trường hợp sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước để tổ chức hội nghị, hội thảo, tọa đàm, đi công tác...phải thực hiện kiểm toán nội bộ hàng năm để kịp thời phát hiện, xử lý các hành vi vi phạm.
c) Có cơ chế khen thưởng hợp lý
Để khuyến khích các cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hành tiết kiệm, tham gia phát hiện lãng phí, Luật năm 2013 bổ sung quy định về việc khen thưởng và nguồn khen thưởng đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thành tích trong thực hành tiết kiệm, tham gia phát hiện lãng phí, chống lãng phí (Khoản 2 Điều 77).
2.10. Về thời gian báo cáo Quốc hội
Để khắc phục quy định của Luật năm 2005 là báo cáo kết quả THTK, CLP trong năm tại kỳ họp cuối năm dẫn đến không đủ số liệu của năm báo cáo, Luật năm 2013 đã sửa đổi theo hướng quy định việc báo cáo kết quả THTK, CLP của năm trước sẽ được thực hiện tại kỳ họp Quốc hội đầu tiên của năm tiếp theo (Khoản 4 Điều 67)./.
Trần Đình Trữ
TP. Pháp chế TTTP. HCM