SỐ LƯỢT TRUY CẬP

2
4
3
6
9
8
6
4
Tin tức sự kiện 14 Tháng Mười 2013 2:20:00 CH

(TTTP) Những nội dung cơ bản của Nghị định số 59/2013/NĐ-CP ngày 17/06/2013 quy định chi tiết một số điều của Luật phòng, chống tham nhũng sửa đổi năm 2012

 

Tải file đính kèm

Ngày 17 tháng 6 năm 2013, Chính phủ ban hành Nghị định số 59/2013/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Phòng, chống tham nhũng 2012. Nghị định được ban hành thay thế cho Nghị định số 120/2006/NĐ-CP ngày 20 tháng 10 năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Phòng, chống tham nhũng 2005. Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 31 tháng 7 năm 2013.

Phòng Pháp chế phối hợp với Chi hội Luật gia Thanh tra thành phố giới thiệu một số nội dung cơ bản của Nghị định như sau:

I. Căn cứ ban hành Nghị định

Nghị định được ban hành dựa trên các căn cứ sau:

Một, Luật Phòng, chống tham nhũng số 55/2005/QH11 (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 01/2007/QH12 và Luật số 27/2012/QH3) - sau đây gọi chung là Luật Phòng, chống tham nhũng tại Khoản 4 Điều 53a quy định: “Chính phủ quy định chi tiết về trình tự, thủ tục, thời hạn tạm đình chỉ, chuyển vị trí công tác khác; việc hưởng lương, phụ cấp, quyền, lợi ích khác và việc bồi thường, khôi phục lại quyền, lợi ích hợp pháp của cán bộ, công chức, viên chức sau khi cơ quan, tổ chức có thẩm quyền kết luận người đó không có hành vi tham nhũng”.

Hai, Luật Thanh tra năm 2010, Luật Tố cáo năm 2011, Luật Phòng, chống tham nhũng quy định một số nội dung mới có liên quan đến các quy định của Nghị định số 120/2006/NĐ-CP ngày 20/10/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật phòng, chống tham nhũng số 55/2005/QH11 như quy định “về kiểm tra việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng; thanh tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng; tố cáo hành vi tham nhũng; bảo vệ, khen thưởng người tố cáo; quỹ khen thưởng về phòng, chống tham nhũng và một số vấn đề khác.

Vì vậy, để quy định chi tiết Khoản 4 Điều 53a Luật Phòng, chống tham nhũng và đảm bảo sự phù hợp với các quy định của Luật thanh tra năm 2010, Luật tố cáo năm 2011, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 59/2013/NĐ-CP ngày 17/6/2013 quy định chi tiết một số điều của Luật phòng, chống tham nhũng. Nghị định này thay thế Nghị định số 120/2006/NĐ-CP ngày 20/10/2006 và có hiệu lực kể từ ngày 31/7/2013.

II. Bố cục của Nghị định

Nghị định gồm 09 chương và 65 điều (nhiều hơn 01 chương và 10 điều so với Nghị định số 120/2006/NĐ-CP ngày 20/10/2006). Cụ thể như sau:

- Chương I. Những quy định chung: gồm 03 điều (từ Điều 1 đến Điều 3)

- Chương II. Công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị: gồm 02 mục và 09 điều (từ Điều 4 đến Điều 12)

- Chương III. Tạm đình chỉ công tác, tạm thời chuyển vị trí công tác khác đối với cán bộ, công chức, viên chức có hành vi vi phạm pháp luật liên quan tham nhũng: gồm 04 mục và 13 điều (từ Điều 13 đến Điều 25) 

- Chương IV. Chế độ thông tin, báo cáo về phòng, chống tham nhũng: gồm 03 mục và 14 điều (từ Điều 26 đến Điều 39)

- Chương V. Chế độ kiểm tra, thanh tra việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng: gồm 02 mục và 12 điều (từ Điều 40 đến Điều 51) 

- Chương VI. Tố cáo hành vi tham nhũng: gồm 02 mục và 08 điều (từ Điều 52 đến Điều 59)

- Chương VII. Xây dựng và thực hiện các chế độ, định mức, tiêu chuẩn: gồm 02 điều (từ Điều 60 đến Điều 61)

- Chương VIII. Những quy định khác: gồm 02 điều (từ Điều 62 đến Điều 63)

- Chương IX. Điều khoản thi hành: gồm 02 điều (từ Điều 64 đến Điều 65)

III. Những điểm mới của Nghị định

Về cơ bản, Nghị định số 59/2013/NĐ-CP ngày 17/6/2013 tiếp tục kế thừa các quy định của Nghị định số 120/2006/NĐ-CP ngày 20/10/2006, đặc biệt là về những quy định chung; chế độ thông tin, báo cáo về phòng, chống tham nhũng; xây dựng và thực hiện các chế độ, định mức, tiêu chuẩn và một số quy định khác. Những điểm mới của Nghị định số 59/2013/NĐ-CP tập trung vào một số nội dung sau:

1. Sửa đổi, bổ sung các quy định về công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị theo tinh thần của Điều 12 Luật Phòng, chống tham nhũng (tại Điều 4 và Điều 5, Mục 1, Chương II).

a) Căn cứ Điều 12 Luật Phòng, chống tham nhũng, Điều 5 Nghị định quy định về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trong việc áp dụng các hình thức công khai trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị. Theo đó, trong trường hợp pháp luật có quy định cụ thể về hình thức công khai, thì phải áp dụng hình thức công khai đó. Ngoài ra, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có trách nhiệm áp dụng một hoặc một số hình thức công khai theo quy định tại các Điểm b, c, d, đ, e Khoản 1 Điều 12 Luật Phòng, chống tham nhũng (các hình thức công khai bắt buộc gồm: niêm yết tại trụ sở; thông báo bằng văn bản; phát hành ấn phẩm; thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng; đưa lên trang thông tin điện tử).

Quy định như vậy nhằm khắc phục tính hình thức liên quan đến việc thực hiện công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị. Bên cạnh đó, Điều 4 Nghị định cũng quy định danh mục bí mật nhà nước do các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền ban hành không được bao gồm các nội dung bắt buộc phải công khai theo quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng, đặc biệt là tại các điều mới được sửa đổi, bổ sung năm 2012, bao gồm: Điều 13, Điều 14, Điều 15, Điều 18, Điều 19, Điều 21, Điều 23, Điều 26a, Điều 26b, Điều 26c, Điều 26d, Điều 27 và Điều 30.

b) Căn cứ Điều 32 Luật Phòng, chống tham nhũng và trên cơ sở bãi bỏ Điều 73 theo Luật số 27/2012/QH13 ngày 23/11/2012, Nghị định bổ sung thêm quyền của cơ quan, tổ chức, cá nhân yêu cầu cung cấp thông tin nhận văn bản trả lời về việc chưa cung cấp thông tin (Khoản 1 Điều 6) và bỏ thẩm quyền giải quyết khiếu nại của Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng trong trường hợp người bị khiếu nại do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm hoặc là người đứng đầu cơ quan trung ương của các tổ chức chính trị - xã hội (Điều 11).

2. Quy định về việc tạm đình chỉ, tạm thời chuyển vị trí công tác khác đối với cán bộ, công chức, viên chức có hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến tham nhũng (Điều 13 đến Điều 25, Chương III):

a) Về thẩm quyền ra quyết định tạm đình chỉ, tạm thời chuyển vị trí công tác khác (Điều 13 đến Điều 15):

- Điều 13 Nghị định quy định chi tiết nguyên tắc xác định thẩm quyền căn cứ vào Điều 53a Luật Phòng, chống tham nhũng.

Theo đó, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền tuyển dụng, bổ nhiệm, quản lý cán bộ, công chức, viên chức thì có quyền ra quyết định tạm đình chỉ, tạm thời chuyển vị trí công tác khác. Đối với các trường hợp khác, thì người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trực tiếp quản lý cán bộ, công chức, viên chức sẽ kiến nghị người có thẩm quyền ra quyết định tạm đình chỉ, tạm thời chuyển vị trí công tác khác. Người có thẩm quyền được hiểu là người có thẩm quyền tuyển dụng, bổ nhiệm, quản lý cán bộ, công chức, viên chức hoặc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền phê chuẩn đối với một số chức vụ trong các cơ quan nhà nước. Đồng thời, Điều 13 cũng quy định trường hợp pháp luật khác hoặc điều lệ của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội có quy định về thẩm quyền ra quyết định tạm đình chỉ công tác, tạm thời chuyển vị trí công tác khác, thì áp dụng quy định của pháp luật đó hoặc điều kiện của tổ chức đó;

- Điều 14 Nghị định quy định cụ thể về thẩm quyền ra quyết định tạm đình chỉ công tác, tạm thời chuyển vị trí công tác khác trong cơ quan hành chính nhà nước theo thẩm quyền bổ nhiệm, quản lý cán bộ, công chức, viên chức đối với Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp; người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; Tổng cục trưởng, Cục trưởng và cấp tương đương được phân cấp quản lý cán bộ, công chức; Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; Thủ tướng Chính phủ.

Riêng đối với một số vị trí do Hội đồng nhân dân các cấp bầu hoặc Quốc hội phê chuẩn, bao gồm: Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã, huyện, thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp trên chỉ có quyền ra quyết định tạm đình chỉ công tác; đồng thời Thủ tướng Chính phủ có thẩm quyền ra quyết định tạm đình chỉ công tác đối với Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, trình Quốc hội phê chuẩn đề nghị tạm đình chỉ công tác hoặc trong thời gian Quốc hội không họp thì trình Chủ tịch nước quyết định tạm đình chỉ công tác đối với Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.

- Điều 15 Nghị định quy định cụ thể về thẩm quyền ra quyết định tạm đình chỉ công tác, tạm thời chuyển vị trí công tác khác trong đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước cũng căn cứ vào thẩm quyền bổ nhiệm, quản lý trực tiếp cán bộ, công chức, viên chức. Theo đó, thẩm quyền này được quy định đối với người đứng đầu cơ quan có thẩm quyền quản lý đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước (chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước) đối với các vị trí do họ bổ nhiệm và người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước đối với các viên chức do họ tuyển dụng, bổ nhiệm, quản lý trực tiếp.

b) Căn cứ tạm đình chỉ công tác, tạm thời chuyển vị trí công tác khác; quyền và nghĩa vụ của người ra quyết định tạm đình chỉ công tác, tạm thời chuyển vị trí công tác khác (Điều 16 đến Điều 18):

- Điều 16 Nghị định quy định chi tiết căn cứ Khoản 1 và Khoản 2 Điều 53a Luật Phòng, chống tham nhũng về căn cứ tạm đình chỉ công tác, tạm thời chuyển vị trí công tác khác. Theo đó, căn cứ để ra quyết định phải đáp ứng cả hai điều kiện: cán bộ, công chức, viên chức có hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến tham nhũng và đồng thời có dấu hiệu gây khó khăn cho việc xem xét, xử lý nếu vẫn tiếp tục để người đó làm việc ở vị trí hiện tại (Khoản 1).

Đồng thời, Điều 16 Nghị định đã làm rõ căn cứ cho rằng cán bộ, công chức, viên chức có hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến tham nhũng, bao gồm: Khi có văn bản yêu cầu của cơ quan thanh tra, Kiểm toán Nhà nước, cơ quan điều tra, Viện kiểm sát; qua xác minh, làm rõ nội dung theo đơn tố cáo phát hiện cán bộ, công chức, viên chức thực hiện hành vi có dấu hiệu tham nhũng; qua công tác tự kiểm tra trong cơ quan, tổ chức, đơn vị phát hiện cán bộ, công chức, viên chức thực hiện hành vi có dấu hiệu tham nhũng; qua công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành phát hiện cán bộ, công chức, viên chức thực hiện hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến quản lý, sử dụng ngân sách, tài sản của Nhà nước hoặc thi hành công vụ (Khoản 2).

Điều 16 Nghị định quy định các hành vi được coi là có dấu hiệu gây khó khăn cho việc xem xét, xử lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền bao gồm: Từ chối cung cấp thông tin, tài liệu hoặc cung cấp thông tin, tài liệu không đầy đủ, sai sự thật; cố ý trì hoãn, trốn tránh không thực hiện yêu cầu của người có thẩm quyền trong quá trình xác minh, làm rõ hành vi tham nhũng; tự ý tháo gỡ niêm phong tài liệu, tiêu hủy thông tin, tài liệu, chứng cứ; tẩu tán tài sản có liên quan đến hành vi vi phạm pháp luật; lợi dụng chức vụ, quyền hạn, ảnh hưởng của mình, của người khác hoặc dùng hình thức khác để che giấu hành vi vi phạm pháp luật, gây khó khăn cho việc xác minh, làm rõ (Khoản 3).

- Điều 17 Nghị định quy định về quyền và nghĩa vụ của người ra quyết định tạm đình chỉ, tạm thời chuyển vị trí công tác khác căn cứ Khoản 2 và Khoản 3 Điều 53a Luật Phòng, chống tham nhũng nhằm đảm bảo tính chặt chẽ, thống nhất và hiệu lực, hiệu quả trong quá trình áp dụng.

Theo đó, người ra quyết định tạm đình chỉ công tác, tạm thời chuyển vị trí công tác khác có quyền yêu cầu cơ quan thanh tra, Kiểm toán Nhà nước, cơ quan điều tra, Viện kiểm sát cung cấp thông tin, tài liệu để làm rõ căn cứ cho việc ra quyết định. Đồng thời, người ra quyết định tạm đình chỉ công tác, tạm thời chuyển vị trí công tác khác cũng có quyền yêu cầu cán bộ, công chức, viên chức bị tạm đình chỉ công tác, tạm thời chuyển vị trí công tác khác phối hợp với các cơ quan có thẩm quyền trong quá trình xác minh, làm rõ hành vi tham nhũng.

Cùng với việc quy định quyền, Điều 17 Nghị định cũng quy định chi tiết về nghĩa vụ của người ra quyết định tạm đình chỉ công tác, tạm thời chuyển vị trí công tác khác, bao gồm: nghĩa vụ gửi quyết định cho đối tượng và cơ quan, đơn vị có liên quan; hủy quyết định khi có kết luận cán bộ, công chức, viên chức không có hành vi tham nhũng hoặc hết thời hạn mà không xác định được người đó có hành vi tham nhũng; công khai việc hủy bỏ quyết định; khôi phục lại quyền, lợi ích hợp pháp của đối tượng.

- Điều 18 Nghị định quy định về quyền và nghĩa vụ của cán bộ, công chức, viên chức bị tạm đình chỉ công tác, tạm thời chuyển vị trí công tác khác nhằm bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp của họ và tác động của biện pháp này trong xem xét, xử lý hành vi tham nhũng.

Theo đó, cán bộ, công chức, viên chức bị tạm đình chỉ công tác, tạm thời chuyển vị trí công tác khác có quyền nhận quyết định; nhận thông báo kết luận về việc xác minh, làm rõ hành vi tham nhũng; đề nghị người có thẩm quyền xem xét lại quyết định; đề nghị hủy bỏ quyết định và khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp, cũng như bồi thường khi có thiệt hại do hành vi trái pháp luật trong quá trình ra quyết định. Bên cạnh đó, Điều 18, cũng quy định các nghĩa vụ của đối tượng như chấp hành quyết định; cung cấp thông tin; chấp hành nội quy, quy chế làm việc của đơn vị tiếp nhận trong thời gian thực hiện quyết định.

c) Trình tự, thủ tục, thời hạn tạm đình chỉ công tác, tạm thời chuyển vị trí công tác khác; hủy bỏ và công khai việc hủy bỏ quyết định tạm đình chỉ công tác, tạm thời chuyển vị trí công tác khác (Điều 19 đến Điều 23):

- Điều 19 Nghị định quy định về thời hạn ra quyết định trong 05 ngày kể từ ngày có các căn cứ theo quy định tại Điều 16; việc lựa chọn biện pháp phù hợp; các yêu cầu đối với quyết định; việc gửi quyết định và áp dụng pháp luật khác khi có quy định về trình tự, thủ tục tạm đình chỉ công tác, tạm thời chuyển vị trí công tác khác.

Nghị định coi việc tạm đình chỉ công tác, tạm thời chuyển vị trí công tác khác là những biện pháp quản lý, điều hành thuộc trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc của người có thẩm quyền quản lý cán bộ, công chức, viên chức trong phòng, chống tham nhũng. Các biện pháp này được áp dụng gắn liền với trình tự, thủ tục tiến hành xác minh, làm rõ hành vi tham nhũng của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền nhằm loại bỏ những khó khăn, cản trở có thể phát sinh. Do đó, không đưa ra các quy định riêng cụ thể về trình tự, thủ tục áp dụng các biện pháp này. Việc lựa chọn biện pháp nào cần căn cứ vào tính chất, mức độ của từng vụ việc và yêu cầu bố trí, sử dụng cán bộ, công chức, viên chức, nên Nghị định quy định người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc người có thẩm quyền quản lý cán bộ, công chức, viên chức sẽ đưa ra quyết định cụ thể. Quy định như vậy là cần thiết nhằm bảo đảm tính kịp thời và hiệu quả trong việc tháo gỡ khó khăn gặp phải khi xem xét, xử lý hành vi tham nhũng.

- Điều 20 Nghị định quy định về thời hạn tạm đình chỉ công tác, tạm thời chuyển vị trí công tác khác tối đa là 90 ngày, kể từ ngày ra quyết định tạm đình chỉ, tạm thời chuyển vị trí công tác khác.

Việc quy định thời hạn này phù hợp với các thời hạn quy định trong hoạt động thanh tra, kiểm tra, kiểm toán và thu thập thông tin ban đầu trong hoạt động điều tra xuất phát từ yêu cầu áp dụng các biện pháp tạm thời nhằm loại bỏ cản trở, khó khăn khi xem xét, xử lý hành vi tham nhũng. Kết thúc thời hạn này, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm phải ra kết luận về việc có hay không có hành vi tham nhũng. Trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền kết luận cán bộ, công chức, viên chức không có hành vi tham nhũng, thì người đã ra quyết định tạm đình chỉ công tác, tạm thời chuyển vị trí công tác khác phải hủy bỏ quyết định của mình; trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền kết luận có hành vi tham nhũng, thì phải tiến hành xử lý theo thẩm quyền, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý hoặc chuyển hồ sơ vụ việc sang cơ quan điều tra để xem xét xử lý hình sự nếu có dấu hiệu tội phạm theo trình tự, thủ tục và thời hạn được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan.

- Các Điều 21, 22 và 23 Nghị định quy định về hủy bỏ quyết định tạm đình chỉ công tác, tạm thời chuyển vị trí công tác khác; công khai việc hủy bỏ và trình tự, thủ tục, thời hạn tạm đình chỉ công tác, tạm thời chuyển vị trí công tác khác đối với cán bộ, công chức, viên chức là thành viên của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội.

Theo đó, trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày có kết luận cán bộ, công chức, viên chức không có hành vi tham nhũng hoặc kể từ ngày hết thời hạn tạm đình chỉ công tác, tạm thời chuyển vị trí công tác khác mà không có kết luận về hành vi tham nhũng, thì người có thẩm quyền phải ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm đình chỉ công tác, tạm thời chuyển vị trí công tác khác. Việc hủy bỏ phải được thông báo đến đối tượng, cơ quan, đơn vị có liên quan và công khai với toàn thể cán bộ, công chức, viên chức của cơ quan, đơn vị, tổ chức nơi người đó công tác. Người có thẩm quyền ra quyết định phải lựa chọn một hình thức phù hợp trong 03 hình thức công khai, bao gồm: công bố tại cuộc họp toàn thể; niêm yết tại trụ sở làm việc; thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng.

Đồng thời, Điều 23 Nghị định cũng quy định đối với cán bộ, công chức, viên chức là thành viên của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, thì trình tự, thủ tục, thời hạn tạm đình chỉ công tác, tạm thời chuyển vị trí công tác được thực hiện theo quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng, Nghị định này và theo điều lệ, quy định của tổ chức đó nhằm đảm bảo tính chặt chẽ, hạn chế những vướng mắc từ các tình huống xung đột khi áp dụng pháp luật và các quy định có liên quan trong thực tiễn thi hành.

d) Chế độ, chính sách; bồi thường, khôi phục lại quyền, lợi ích hợp pháp đối với cán bộ, công chức, viên chức bị tạm đình chỉ công tác, tạm thời chuyển vị trí công tác khác (Điều 24 đến Điều 25):

Để phù hợp với pháp luật về lao động và pháp luật về cán bộ, công chức, viên chức, Điều 24 Nghị định đã quy định chế độ, chính sách đối với người bị tạm đình chỉ công tác, tạm thời chuyển vi trí công tác khác. Theo đó, cán bộ, công chức, viên chức trong thời hạn tạm đình chỉ công tác, tạm thời chuyển vị trí công tác khác được giữ nguyên chế độ, chính sách và các quyền, lợi ích hợp pháp khác như ở vị trí công tác ban đầu. Quy định này cũng phản ánh đúng bản chất của các biện pháp mang tính quản lý, điều hành của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trong việc loại bỏ nguy cơ gây khó khăn cho quá trình xem xét, xử lý hành vi tham nhũng.

Đồng thời, nhằm đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của cán bộ, công chức, viên chức, Điều 25 Nghị định cũng quy định cụ thể về việc khôi phục lại quyền, lợi ích hợp pháp của họ sau khi cơ quan, tổ chức có thẩm quyền kết luận người đó không có hành vi tham nhũng hoặc hết thời hạn mà không có kết luận về hành vi tham nhũng và người có thẩm quyền quản lý sử dụng cán bộ, công chức đã có hành vi vi phạm pháp luật trong việc tạm đình chỉ, tạm thời chuyển vị trí công tác khác thì được xin lỗi, cải chính công khai, được bồi thường thiệt hại theo quy định pháp luật và được trở lại vị trí công tác ban đầu.

3. Sửa đổi, bổ sung các quy định về kiểm tra, thanh tra việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng (Điều 40 đến Điều 51, Chương V).

a) Nhằm đảm bảo tính chủ động, thường xuyên và kịp thời trong hoạt động kiểm tra của Thủ trưởng các ngành, các cấp và người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị, qua đó góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước nói chung và phòng, chống tham nhũng nói riêng, Nghị định đã lược bỏ một số quy định bất cập qua tổng kết thực tiễn, bao gồm: quy định về việc ban hành và niêm yết kế hoạch kiểm tra việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng; quy định về nội dung của kế hoạch kiểm tra (Điều 41 Nghị định).

b) Nghị định cũng quy định về các nội dung thanh tra việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng trên tinh thần phù hợp với quy định của Luật Thanh tra năm 2010, cụ thể như sau:

- Bổ sung thêm căn cứ tiến hành thanh tra theo yêu cầu của việc giải quyết tố cáo về tham nhũng tại Khoản 4 Điều 45 Nghị định (phù hợp với Khoản 4 Điều 38 Luật Thanh tra năm 2010);

- Bổ sung thẩm quyền thanh tra của Thanh tra Chính phủ, Thanh tra cấp bộ, Thanh tra cấp tỉnh đối với doanh nghiệp nhà nước do Thủ trưởng cơ quan quản lý cùng cấp quyết định thành lập và chỉnh lý về kỹ thuật thể hiện tại Điều 46 Nghị định (phù hợp với Điểm a, Khoản 2 Điều 15; Điểm a, Khoản 2 Điều 18; Điều a, Khoản 2 Điều 21 Luật thanh tra năm 2010);

- Sửa đổi quy định về xây dựng kế hoạch thanh tra hằng năm tại Điều 48 cho phù hợp với các quy định của pháp luật về thanh tra, đặc biệt là quy định về thời hạn phê duyệt kế hoạch thanh tra; lược bỏ quy định về việc công khai kế hoạch thanh tra; nội dung của kế hoạch thanh tra.

4. Sửa đổi, bổ sung các quy định về tố cáo hành vi tham nhũng (Điều 52 đến Điều 59, Chương VI).

Nghị định quy định về việc tố cáo và giải quyết tố cáo hành vi tham nhũng cho phù hợp với các quy định của Luật Tố cáo năm 2011 và Luật Phòng, chống tham nhũng, cụ thể như sau:

a) Quy định thời hạn chuyển hồ sơ tố cáo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết là 05 ngày kể từ ngày tiếp nhận tại Khoản 2 Điều 53 Nghị định (so với 10 ngày theo quy định trước đây) cho phù hợp với thời hạn quy định tại Điều 20, Luật Tố cáo năm 2011;

b) Lược bỏ quy định về trách nhiệm thụ lý, giải quyết, báo cáo kết quả giải quyết tố cáo cho Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng tại Điều 53 Nghị định cho phù hợp với việc bãi bỏ Điều 73 Luật Phòng, chống tham nhũng theo Luật số 27/2012/QH13 ngày 23/11/2012;

c) Quy định về việc công khai kết luận về nội dung tố cáo, quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo tại Khoản 2 Điều 56 Nghị định (trước đây chỉ quy định việc công khai quyết định xử lý tố cáo) cho phù hợp với Điều 30 Luật Tố cáo năm 2011 về công khai kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo; quy định việc xử lý người cố tình tố cáo sai sự thật mà không cần phải có yêu cầu của người bị tố cáo tại Khoản 3 Điều 56 Nghị định (trước đây chỉ quy định việc xử lý trong trường hợp có yêu cầu);

d) Lược bỏ các quy định về hành vi bị nghiêm cấm và xử lý vi phạm; quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của người tố cáo hành vi tham nhũng; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân trong việc bảo vệ người tố cáo hành vi tham nhũng và quy định chung về việc bảo vệ người tố cáo (tại Điều 58 Nghị định) trên cơ sở dẫn chiếu các các quy định có liên quan của pháp luật về tố cáo.

Luật Tố cáo năm 2011 dành hẳn Chương V quy định về bảo vệ người tố cáo; Nghị định 76/2012/NĐ-CP ngày 03/10/2012 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tố cáo cũng quy định về bảo vệ người tố cáo và người thân thích của người tố cáo tại Chương III. Theo các quy định mới này, việc bảo vệ người tố cáo đã được quy định một cách đầy đủ, toàn diện, với nhiều biện pháp mới đủ mạnh để áp dụng trong trường hợp bảo vệ người tố cáo tham nhũng. Vì vậy, việc lược bỏ và dẫn chiếu các quy định về bảo vệ người tố cáo đến pháp luật về tố cáo là cần thiết.

e) Ngoài ra, để phù hợp với việc bãi bỏ Điều 73 Luật Phòng, chống tham nhũng theo Luật số 27/2012/QH13 ngày 23/11/2012, Nghị định đã quy định việc quản lý quỹ khen thưởng về phòng, chống tham nhũng được giao cho Thanh tra Chính phủ (so với trước đây là giao cho Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng; đồng thời gộp quy định về quỹ khen thưởng về phòng, chống tham nhũng với quy định về khen thưởng người tố cáo hành vi tham nhũng thành Điều 59 Nghị định.

5. Các nội dung khác:

Ngoài các điểm mới trên, Nghị định số 59/2013/NĐ-CP ngày 17/6/2013 của Chính phủ cũng chỉnh lý một số quy định để đảm bảo tính chặt chẽ, đồng bộ với các quy định pháp luật khác có liên quan, cụ thể như sau:

- Chỉnh lý quy định về hành vi đưa hối lộ, môi giới hối lộ được thực hiện bởi người có chức vụ, quyền hạn tại Điểm d, Điểm e Khoản 1 và Điểm b Khoản 2, Khoản 3, Khoản 4 và Khoản 5 Điều 3 Nghị định.

- Chỉnh lý quy định về căn cứ ban hành danh mục bí mật nhà nước tại Khoản 1 Điều 4 Nghị định: theo quy định của pháp luật về bí mật nhà nước (so với quy định trước đây là theo quy định của Pháp lệnh Bảo vệ bí mật nhà nước).

- Chỉnh lý quy định về xử lý trách nhiệm của người được yêu cầu cung cấp thông tin mà không thực hiện đúng các nghĩa vụ về cung cấp thông tin theo hướng làm rõ hình thức xử lý kỷ luật (so với trước đây có quy định cả xử lý hình sự) cho phù hợp với tính chất, mức độ của hành vi vi phạm và các quy định của Bộ luật hình sự.

Bên cạnh chỉnh lý về nội dung, Nghị định số 59/2013/NĐ-CP cũng kế thừa và chỉnh lý kỹ thuật đối với một quy định khác của Nghị định số 120/2006/NĐ-CP như dùng số (10 ngày) thay cho viết chữ (mười ngày) khi quy định về thời hạn hoặc điều chỉnh các điều được dẫn chiếu cho phù hợp với thứ tự điều trong Nghị định số 59/2013/NĐ-CP./.

 

Trần Đình Trữ

Trưởng phòng Pháp Chế


Số lượt người xem: 4697    

TIN MỚI HƠN

TIN ĐÃ ĐƯA

Tìm kiếm