Luật Hòa giải cơ sở được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 20 tháng 6 năm 2013, được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký Lệnh công bố số 08/2013/L-CTN ngày 28 tháng 6 năm 2013. Luật có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2014.
Phòng Pháp chế phối hợp với Chi hội Luật gia Thanh tra thành phố giới thiệu một số nội dung cơ bản của Luật như sau:
I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ
Điều 127 Hiến pháp năm 1992 đã quy định: “Ở cơ sở, thành lập các tổ chức thích hợp của nhân dân để giải quyết những việc vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong nhân dân theo quy định của pháp luật”. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 cũng đề ra nhiệm vụ: “khuyến khích việc giải quyết một số tranh chấp thông qua thương lượng, hòa giải, trọng tài". Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp, ngày 25/12/1998 Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh số 09/1998/PL-UBTVQH10 về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở (sau đây gọi tắt là Pháp lệnh). Ngày 18/10/1999, Chính phủ ban hành Nghị định số 160/1999/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở (sau đây gọi tắt là Nghị định). Các văn bản quy phạm pháp luật này đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở.
Thực tiễn thi hành Pháp lệnh và Nghị định trong thời gian qua cho thấy, hòa giải ở cơ sở không ngừng được củng cố về tổ chức, đội ngũ, từng bước nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động, thúc đẩy đất nước phát triển. Về tổ chức số lượng tổ hòa giải, hòa giải viên tăng lên đáng kể so với trước khi có Pháp lệnh. Về hoạt động, kết quả hoạt động hòa giải ở cơ sở ngày một nâng cao. Theo báo cáo của 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, tính từ năm 1999 đến tháng 03 năm 2012, tổng số vụ việc nhận hòa giải là 4.358.662, trong đó, hòa giải thành là 3.488.144 vụ, đạt tỷ lệ 80% góp phần giải quyết các mâu thuẫn, vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ ở cơ sở.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác hòa giải ở cơ sở đã bộc lộ một số tồn tại, hạn chế cần được hoàn thiện, thể hiện trên các mặt cụ thể sau:
- Pháp lệnh và Nghị định chưa quy định đầy đủ, cụ thể về cơ chế, chính sách cho công tác hòa giải ở cơ sở, trong đó có quyền và nghĩa vụ của hòa giải viên. Quyền được bồi dưỡng kiến thức pháp luật, nghiệp vụ, kỹ năng hòa giải ở cơ sở, được cung cấp tài liệu pháp luật liên quan đến hoạt động hòa giải... chưa được chú trọng, dẫn đến năng lực của đội ngũ hòa giải viên nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu, ảnh hưởng đến kết quả hòa giải thành ở một số địa phương. Việc khen thưởng, chế độ đãi ngộ, thù lao đối với hòa giải viên chưa được ghi nhận, chưa kịp thời tôn vinh các hòa giải viên giỏi. Chính sách hỗ trợ về kinh phí cho hoạt động của Tổ hòa giải chưa được quy định, do đó, hoạt động của tổ hòa giải gặp nhiều khó khăn.
- Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận trong công tác hòa giải ở cơ sở chưa được quy định rõ. Việc phân định trách nhiệm và cơ chế phối hợp của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận với cơ quan Tư pháp từ Trung ương đến địa phương không rõ ràng, dẫn đến tình trạng nhiều nơi cho rằng công tác hòa giải ở cơ sở là công việc, trách nhiệm của ngành Tư pháp. Do vậy, dẫn đến sự phối hợp trong công tác hòa giải chưa được thực hiện một cách thường xuyên, chặt chẽ và thiếu sự chủ động.
- Bộ Tư pháp là cơ quan chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về hòa giải ở cơ sở nhưng các quy định bảo đảm cho việc thực hiện chức năng này của Bộ Tư pháp nói riêng và Tư pháp địa phương nói chung chưa được quy định đầy đủ; trách nhiệm của các Bộ, ngành liên quan trong hoạt động hòa giải ở cơ sở chưa được quy định; trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các cấp trong việc thực hiện quản lý nhà nước về công tác hòa giải còn chung chung.
Những tồn tại, hạn chế trong công tác hòa giải ở cơ sở có nhiều nguyên nhân, trong đó có một số nguyên nhân chủ yếu sau:
1. Các quy định về tổ chức, hoạt động, quản lý hòa giải ở cơ sở chưa đầy đủ, cụ thể và thống nhất.
2. Ở một số địa phương, cấp ủy, chính quyền chưa thực sự nhận thức đày đủ bản chất, ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác hòa giải ở cơ sở đối với đời sống xã hội. Cơ quan tư pháp các cấp nhiều nơi chưa thực sự chủ động, chưa làm tốt vai trò tham mưu giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp trong quản lý công tác hòa giải ở địa phương.
3. Sự phối hợp giữa cơ quan Tư pháp các cấp và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp trong quản lý công tác hòa giải ở cơ sở chưa hiệu quả.
4. Việc huy động nguồn lực cho công tác hòa giải ở cơ sở chưa được tiến hành một cách đồng bộ và thống nhất. Đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về hòa giải phải kiêm nhiệm nhiều việc. Việc bồi dưỡng kiến thức pháp luật và nghiệp vụ hòa giải ở một số địa phương chưa được thực hiện thường xuyên. Kinh phí dành cho công tác này gần như không có, nhất là ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, chế độ, chính sách đối với hòa giải viên chưa được đảm bảo.
Trong điều kiện đẩy mạnh cải cách tư pháp, phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xuất phát từ vai trò và ý nghĩa quan trọng của công tác hòa giải ở cơ sở đối với đời sống xã hội, từ tình hình tổ chức, hoạt động hòa giải ở cơ sở trong thời gian qua và thực trạng pháp luật hiện hành về lĩnh vực này, việc xây dựng, ban hành Luật Hòa giải ở cơ sở sẽ thúc đẩy sự tham gia của toàn xã hội, đặc biệt là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, bảo đảm tính linh hoạt, mềm dẻo, giải quyết kịp thời các mâu thuẫn, tranh chấp nhỏ trong nhân dân ở cơ sở, tiết kiệm thời gian, kinh phí cho nhà nước và nhân dân.
II. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG LUẬT
Luật Hòa giải ở cơ sở được xây dựng trên cơ sở những quan điểm chỉ đạo cơ bản sau:
1. Thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng về phát huy dân chủ, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, nhất là Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó xác định “khuyến khích việc giải quyết một số tranh chấp thông qua thương lượng, hòa giải, trọng tài".
2. Bảo đảm phù hợp với Điều 127 Hiến pháp năm 1992 “Ở cơ sở, thành lập các tổ chức thích hợp của nhân dân để giải quyết những việc vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong nhân dân theo quy định của pháp luật” và sự đồng bộ, thống nhất với các văn bản khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
3. Nâng cao vị trí, vai trò của xã hội, trước hết là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận trong công tác hòa giải ở cơ sở. Tiếp tục xã hội hóa hoạt động này.
4. Kế thừa Pháp lệnh, luật hóa một số quy định của Nghị định, đồng thời tham khảo, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm hòa giải của một số nước trong khu vực và trên thế giới.
III. BỐ CỤC VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT
1. Bố cục
Luật Hòa giải ở cơ sở gồm 05 chương, 33 điều, cụ thể như sau:
- Chương I. Những quy định chung (từ Điều 1 đến Điều 6): Chương này quy định về phạm vi điều chỉnh; giải thích từ ngữ; phạm vi hòa giải ở cơ sở; nguyên tắc tổ chức, hoạt động hòa giải ở cơ sở; chính sách của Nhà nước về hòa giải ở cơ sở và hỗ trợ kinh phí cho công tác hòa giải ở cơ sở.
- Chương II. Hòa giải viên, tổ hòa giải (từ Điều 7 đến Điều 15), gồm 2 mục: mục 1 - Hòa giải viên: quy định tiêu chuẩn hòa giải viên; bầu, công nhận hòa giải viên; quyền của hòa giải viên; nghĩa vụ của hòa giải viên; thôi làm hòa giải viên; mục 2 - Tổ hòa giải: quy định về tổ hòa giải; trách nhiệm của tổ hòa giải; tổ trưởng tổ hòa giải; quyền và nghĩa vụ của tổ trưởng tổ hòa giải.
- Chương III. Hoạt động hòa giải ở cơ sở (từ Điều 16 đến Điều 27): Chương này quy định về căn cứ tiến hành hòa giải; quyền và nghĩa vụ của các bên trong hòa giải; phân công hòa giải viên; người được mời tham gia hòa giải; địa điểm, thời gian hòa giải; tiến hành hòa giải; hòa giải giữa các bên ở thôn, tổ dân phố khác nhau; kết thúc hòa giải; hòa giải thành; thực hiện thỏa thuận hòa giải thành; theo dõi, đôn đốc việc thực hiện thỏa thuận hòa giải thành; hòa giải không thành.
- Chương IV. Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức trong hoạt động hòa giải ở cơ sở (từ Điều 28 đến Điều 30): Chương này quy định trách nhiệm quản lý nhà nước về hòa giải cơ sở; trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các cấp; trách nhiệm của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp và các tổ chức thành viên của Mặt trận.
- Chương V. Điều khoản thi hành (từ Điều 31 đến Điều 33): Chương này gồm 3 điều quy định chuyển tiếp; hiệu lực thi hành; quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành.
2. Những nội dung cơ bản của Luật Hòa giải ở cơ sở
2.1. Phạm vi điều chỉnh của Luật
Điều 1 quy định phạm vi điều chỉnh của Luật Hòa giải ở cơ sở, theo đó, Luật quy định về nguyên tắc, chính sách của Nhà nước về hòa giải ở cơ sở, hòa giải viên, tổ hòa giải; hoạt động hòa giải ở cơ sở; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức trong hoạt động hòa giải ở cơ sở.
Hòa giải ở cơ sở là hoạt động tự nguyện, tự quản của nhân dân, do nhân dân thực hiện dưới sự quản lý và có sự hỗ trợ của Nhà nước. Trên cơ sở nguyên tắc, tính chất tự nguyện, tự quản và để bảo đảm phù hợp với nguyên tắc, tính chất tự nguyện, tự quản của hoạt động hòa giải ở cơ sở, Luật Hòa giải ở cơ sở quy định hoạt động hòa giải của Ủy ban nhân dân cấp xã, hòa giải tại Tòa án, hòa giải thương mại, trọng tài, hòa giải lao động theo quy định của các luật khác có liên quan không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật này.
2.2. Phạm vi hòa giải ở cơ sở
Đây là một điểm mới quan trọng của Luật so với Pháp lệnh, Luật quy định phạm vi hoà giải ở cơ sở theo hướng loại trừ, chỉ quy định các trường hợp không được hòa giải. Phạm vi hòa giải ở cơ sở được quy định với yêu cầu bảo đảm các vấn đề sau:
- Việc hòa giải ở cơ sở không được ảnh hưởng đến quá trình cơ quan có thẩm quyền xử lý hành vi vi phạm pháp luật, không được lợi dụng hòa giải ở cơ sở để trốn tránh trách nhiệm hành chính, hình sự;
- Đối tượng của hòa giải ở cơ sở là các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm mà theo quy định của pháp luật chưa đến mức bị xử lý bằng biện pháp hình sự hoặc biện pháp hành chính;
- Hòa giải ở cơ sở nhằm góp phần làm giảm nguy cơ phát sinh phức tạp từ các tranh chấp, mâu thuẫn; hướng đến xây dựng lối sống văn hóa, chia sẻ, đoàn kết trong cộng đồng dân cư; hạn chế các vụ, việc phải đưa đến các cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
- Bao quát các vấn đề phát sinh cần được hòa giải ở cơ sở ngay cả thời điểm hiện tại cũng như sẽ xảy ra trong tương lai để có thể điều chỉnh các mâu thuẫn, tranh chấp có tính đa dạng, linh hoạt thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau liên quan đến đời sống hàng ngày của của từng cá nhân, gia đình và cộng đồng, phụ thuộc vào nhiều yếu tố như cơ cấu dân cư, điều kiện kinh tế xã hội, vị trí địa lý vùng miền…
Trên cơ sở đó, Điều 3 Luật Hòa giải ở cơ sở quy định việc hòa giải ở cơ sở được tiến hành đối với các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật, trừ các trường hợp sau:
- Mâu thuẫn, tranh chấp xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng;
- Vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình, giao dịch dân sự mà theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự không được hòa giải;
- Vi phạm pháp luật mà theo quy định phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc bị xử lý vi phạm hành chính;
- Mâu thuẫn, tranh chấp khác không được hòa giải ở cơ sở theo quy định pháp luật.
Luật giao Chính phủ quy định chi tiết Điều này.
2.3. Chính sách của Nhà nước về hòa giải ở cơ sở
Nhằm thể chế, cụ thể hóa quan điểm chỉ đạo xây dựng Luật, Luật Hòa giải ở cơ sở đã bổ sung quy định về chính sách của Nhà nước đối với công tác hòa giải ở cơ sở, trong đó khuyến khích các bên giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp bằng hình thức hòa giải ở cơ sở và các hình thức hòa giải thích hợp khác; khuyến khích những người có uy tín trong gia đình, dòng họ, cộng đồng dân cư tham gia hòa giải ở cơ sở và tham gia các hình thức hòa giải thích hợp khác; Nhà nước có chính sách tạo điều kiện, hỗ trợ cho hoạt động hòa giải ở cơ sở; khuyến khích tổ chức, cá nhân đóng góp, hỗ trợ cho hoạt động hòa giải ở cơ sở. Một điểm mới quan trọng của Luật so với Pháp lệnh đó là quy định Nhà nước có chính sách để phát huy vai trò nòng cốt của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận trong công tác hòa giải ở cơ sở, thể hiện đúng bản chất của hòa giải ở cơ sở là tự nguyện, tự quản.
2.4. Hỗ trợ kinh phí cho công tác hòa giải ở cơ sở
Đây là điểm mới nổi bật so với Pháp lệnh và là một trong những điều kiện quan trọng bảo đảm hiệu quả cho hoạt động hòa giải ở cơ sở. Hòa giải ở cơ sở với tính chất là hoạt động tự nguyện, tự quản của cộng đồng dân cư. Nhà nước chỉ thực hiện quản lý và hỗ trợ cho công tác này. Nếu Nhà nước bao cấp hoàn toàn cho hoạt động này thì sẽ làm mất đi tính xã hội hóa, tính tự nguyện, tự quản, đi ngược lại với bản chất của hoạt động hòa giải ở cơ sở. Do đó, Luật quy định tại Điều 6 việc Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí cho công tác hòa giải ở cơ sở như sau:
“Nhà nước hỗ trợ kinh phí cho công tác hòa giải ở cơ sở để biên soạn, phát hành tài liệu; tổ chức bồi dưỡng, hướng dẫn nghiệp vụ, kỹ năng về hòa giải ở cơ sở; sơ kết, tổng kết, khen thưởng đối với công tác hòa giải ở cơ sở; chi thù lao cho hòa giải viên theo vụ, việc và hỗ trợ các chi phí cần thiết khác cho hoạt động hòa giải ở cơ sở.
Ngân sách trung ương chi bổ sung cho các địa phương chưa tự cân đối được ngân sách để hỗ trợ kinh phí cho công tác hòa giải ở cơ sở.
Luật giao Chính phủ quy định chi tiết Điều này”.
2.5. Hòa giải viên
Hòa giải viên là những người trực tiếp thực hiện hoạt động hòa giải và là trung tâm của hoạt động này. So với Pháp lệnh, các quy định về tiêu chuẩn hòa giải viên; quyền, nghĩa vụ của hòa giải viên; thủ tục bầu, công nhận hòa giải viên và các trường hợp thôi làm hòa giải viên trong Luật có nhiều điểm mới được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với điều kiện hiện nay.
a) Về tiêu chuẩn hòa giải viên
Với chủ trương thu hút, khuyến khích cá nhân tự nguyện tham gia hoạt động hòa giải ở cơ sở, mong muốn xây dựng đội ngũ hòa giải viên có chất lượng, uy tín, đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ. Các tiêu chuẩn quy định trong Luật về cơ bản đã thể hiện bao quát các yêu cầu trên cũng như tạo sự linh hoạt trong quá trình bầu, lựa chọn hòa giải viên. So với Pháp lệnh, Luật quy định các tiêu chuẩn cơ bản của hòa giải viên, bỏ một số tiêu chuẩn không còn phù hợp (Điều 7).
“Người được bầu làm hòa giải viên phải là công dân Việt Nam thường trú tại cơ sở, tự nguyện tham gia hoạt động hòa giải và có các tiêu chuẩn sau đây:
1. Có phẩm chất đạo đức tốt; có uy tín trong cộng đồng dân cư;
2. Có khả năng thuyết phục, vận động nhân dân; có hiểu biết pháp luật.”
b) Về bầu, công nhận hòa giải viên:
Thực tiến tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở cho thấy Hòa giải viên được bầu và việc bầu hòa giải viên là phù hợp, bởi những lý do sau:
- Một là, hòa giải viên do chính người dân ở cơ sở tiến hành bầu, lựa chọn theo đúng tiêu chuẩn quy định tại Điều 7 sẽ có được sự đồng thuận và ủng hộ tối đa của người dân. Từ đó, hòa giải viên có nhiều thuận lợi trong hoạt động nghiệp vụ của mình.
- Hai là, khi người dân trực tiếp tham gia bầu hòa giải viên, nếu có mâu thuẫn, tranh chấp xảy ra, họ cũng dễ dàng chấp nhận hoặc tự nguyện nhờ hòa giải viên tiến hành hoà giải; hòa giải viên sẽ dễ dàng tiếp cận các bên để tìm hiểu thông tin, phân tích, hướng dẫn các bên tự nguyện hòa giải với nhau hoặc thoả thuận được về việc giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp phát sinh.
- Ba là, thông qua việc bầu hoà giải viên sẽ giúp cho hòa giải viên nhận thức được ý nghĩa, vai trò, tầm quan trọng của việc hòa giải ở cơ sở, từ đó có ý thức nâng cao trách nhiệm của mình.
- Bốn là, qua hoạt động bầu hòa giải viên sẽ góp phần tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho người dân.
- Năm là, việc người dân tiến hành bầu hòa giải viên sẽ tạo điều kiện để người dân tham gia, giám sát việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở.
Luật đã kế thừa các quy định về bầu hòa giải viên trong Pháp lệnh và sửa đổi một số quy định nhằm đề cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp, thể hiện rõ hơn bản chất của hòa giải ở cơ sở là hoạt động xuất phát từ nhu cầu của nhân dân, do nhân dân thực hiện. Việc chủ trì, tổ chức thực hiện bầu hòa giải viên do Trưởng ban công tác Mặt trận tiến hành cùng với sự phối hợp của trưởng thôn, tổ trưởng dân phố. Luật quy định cụ thể hình thức tổ chức bầu hòa giải viên thông qua việc tổ chức cuộc họp đại diện các hộ gia đình hoặc phát phiếu lấy ý kiến các hộ gia đình trong thôn, tổ dân phố; người được bầu làm hòa giải viên phải được trên 50% đại diện hộ gia đình trong thôn, tổ dân phố đồng ý. Trưởng ban công tác Mặt trận lập danh sách người được đề nghị công nhận là hòa giải viên gửi Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã để ra quyết định công nhận hòa giải viên. Quyết định công nhận hòa giải viên được gửi cho Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã, Trưởng ban công tác Mặt trận, trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố, hòa giải viên và thông báo công khai ở thôn, tổ dân phố.
c) Về quyền và nghĩa vụ của hòa giải viên
Luật đã bổ sung một số quyền và nghĩa vụ của hòa giải viên, trong đó có quyền được bồi dưỡng kiến thức pháp luật, nghiệp vụ, kỹ năng hòa giải ở cơ sở; được hưởng thù lao khi thực hiện vụ, việc hòa giải; được khen thưởng; được hỗ trợ, tạo điều kiện để khắc phục hậu quả nếu gặp tai nạn hoặc rủi ro ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng trong khi thực hiện hoạt động hòa giải…cũng như một số nghĩa vụ cho phù hợp với tình hình mới, khắc phục hạn chế, bất cập của đội ngũ hòa giải viên hiện nay.
Với quan điểm không hành chính hóa tổ chức cũng như hoạt động hòa giải ở cơ sở, Luật bỏ quy định về nhiệm kỳ của hòa giải viên nhưng quy định về thời điểm để kiện toàn tổ chức hòa giải ở cơ sở theo hướng hằng năm rà soát, đánh giá về tổ chức và hoạt động của tổ hòa giải.
2.6. Tổ hòa giải
Với bản chất là tổ chức tự quản, được thành lập để hòa giải tại chỗ, thường xuyên, kịp thời các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật trong nhân dân, về cơ bản, địa vị pháp lý, cách thức thành lập tổ hòa giải được kế thừa quy định của Pháp lệnh. Đồng thời, để phù hợp yêu cầu của thực tiễn và đảm bảo nguyên tắc bình đẳng giới, Luật bổ sung quy định về thành phần tổ hòa giải phải có hòa giải viên nữ; đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số, tổ hòa giải cần có hòa giải viên là người dân tộc thiểu số; Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã quyết định số lượng tổ hòa giải, hòa giải viên trong một tổ hòa giải căn cứ vào đặc điểm, tình hình kinh tế - xã hội, dân số của địa phương và đề nghị của Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã. Bổ sung quy định về trách nhiệm của tổ hòa giải và các quyền, nghĩa vụ của tổ trưởng tổ hòa giải.
2.7. Hoạt động hòa giải ở cơ sở
Đây là một chương có nhiều nội dung mới được bổ sung so với Pháp lệnh.
a) Về căn cứ tiến hành hòa giải
Luật Hòa giải ở cơ sở quy định căn cứ tiến hành hòa giải đầu tiên là một bên hoặc các bên yêu cầu hòa giải. Quy định này nhằm đề cao tính tự nguyện, chủ động của các bên khi có nhu cầu hoà giải mâu thuẫn, tranh chấp và vi phạm pháp luật. Thực tế thời gian qua đã khẳng định việc hòa giải nếu được các bên yêu cầu thì việc hòa giải diễn ra thuận lợi hơn so với các trường hợp khác. Ngoài ra, hòa giải viên có thể chủ động tiến hành hòa giải khi trực tiếp chứng kiến hoặc biết về các mâu thuẫn, vi phạm pháp luật và tranh chấp thuộc phạm vi hòa giải; theo phân công của tổ trưởng tổ hòa giải hoặc đề nghị của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.
b) Về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hòa giải:
Đây là một điểm mới của Luật. Hòa giải viên có quyền lựa chọn, đề xuất hòa giải viên, địa điểm, thời gian để tiến hành hòa giải; đồng ý hoặc từ chối hòa giải; yêu cầu tạm dừng hoặc chấm dứt hòa giải; yêu cầu việc hòa giải được tiến hành công khai hoặc không công khai; được bày tỏ ý chí và quyết định về nội dung giải quyết hòa giải. Đồng thời hòa giải viên có nghĩa vụ trình bày đúng sự thật các tình tiết của vụ, việc; cung cấp tài liệu, chứng cứ có liên quan; tôn trọng hòa giải viên, quyền của các bên có liên quan; không gây ảnh hưởng đến an ninh, trật tự tại địa điểm hòa giải.
c) Về người được mời tham gia hòa giải:
Luật cũng quy định trong quá trình hòa giải, nếu thấy cần thiết, hòa giải viên và một trong các bên khi được sự đồng ý của bên kia có thể mời người có uy tín trong dòng họ, ở nơi sinh sống, nơi làm việc; người có trình độ pháp lý, có kiến thức xã hội; già làng, chức sắc tôn giáo, người biết rõ vụ, việc; đại diện của cơ quan, tổ chức hoặc người có uy tín khác tham gia hòa giải. Quy định này nhằm huy động, khuyến khích mọi người trong xã hội tích cực tham gia giải quyết, hòa giải các mâu thuẫn, vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong cộng đồng dân cư. Người được mời tham gia hòa giải phải tuân thủ các nguyên tắc hoạt động hòa giải ở cơ sở. Cơ quan, tổ chức có người được mời tham gia hòa giải có trách nhiệm tạo điều kiện để họ tham gia hòa giải.
d) Về tiến hành hòa giải:
Hòa giải được tiến hành trực tiếp, bằng lời nói với sự có mặt của các bên. Tùy thuộc vào vụ, việc cụ thể, trên cơ sở quy định của pháp luật, đạo đức xã hội, phong tục, tập quán tốt đẹp của nhân dân, hòa giải viên áp dụng các biện pháp thích hợp nhằm giúp các bên hiểu rõ về quyền lợi, trách nhiệm của mỗi bên trong vụ, việc để các bên thỏa thuận việc giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp và tự nguyện thực hiện thỏa thuận đó. Hòa giải viên có trách nhiệm ghi nội dung vụ, việc hòa giải vào Sổ theo dõi hoạt động hòa giải ở cơ sở. Bộ Tư pháp được giao quy định mẫu Sổ theo dõi hoạt động hòa giải ở cơ sở.
đ) Về hòa giải thành:
Hòa giải thành là trường hợp các bên đạt được thỏa thuận. Các bên có thể thỏa thuận lập văn bản hòa giải thành gồm các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 24 nhằm giúp hòa giải viên được thuận lợi, thống nhất trong việc lập văn bản hòa giải thành.
Khác với hoạt động hòa giải tại Tòa án, Trọng tài (hình thức hòa giải trong tố tụng) hay hòa giải do Ban hòa giải/Hội đồng hòa giải cấp xã thực hiện theo quy định của Luật Đất đai (do cơ quan nhà nước thực hiện), hòa giải ở cơ sở là hình thức hòa giải do người dân thực hiện trên cơ sở tự nguyện của các bên. Do đó, văn bản hòa giải thành ở cơ sở chỉ là sự ghi nhận thỏa thuận của các bên, thể hiện sự ràng buộc mang ý nghĩa đạo lý, danh dự mà không phải là quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong vụ án, vụ việc dân sự. Trường hợp các bên không đồng ý thì có quyền khởi kiện theo quy định của pháp luật. Quy định như vậy cũng là để bảo đảm quyền khởi kiện của công dân theo quy định của Hiến pháp.
e) Về theo dõi, đôn đốc, việc thực hiện thỏa thuận hòa giải thành:
Luật bổ sung quy định mới này nhằm bảo đảm cho việc thực hiện kết quả hòa giải được hiệu quả, thiết thực. Hòa giải viên có trách nhiệm theo dõi, đôn đốc việc thực hiện thỏa thuận hòa giải thành do mình trực tiếp giải quyết; kịp thời thông báo cho tổ trưởng tổ hòa giải để báo cáo Trưởng ban công tác Mặt trận những vấn đề phát sinh trong quá trình theo dõi, đôn đốc thực hiện.
g) Về hòa giải không thành:
Hòa giải không thành là trường hợp các bên không đạt được thỏa thuận. Trong trường hợp này, các bên có quyền yêu cầu tiếp tục hòa giải hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật.
2.8. Trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong hoạt động hòa giải ở cơ sở
Nhằm khẳng định vị trí, vai trò của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong công tác hòa giải ở cơ sở, cụ thể hóa chính sách phát huy vai trò nòng cốt của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận trong công tác hòa giải ở cơ sở, bên cạnh việc quy định cụ thể vai trò nòng cốt của Mặt trận Tổ quốc trong giới thiệu, bầu, công nhận, cho thôi hòa giải viên, củng cố, kiện toàn tổ hòa giải, thực hiện hoạt động hòa giải ở cơ sở, theo dõi, đôn đốc các bên thực hiện kết quả hòa giải thành, Luật quy định cụ thể trách nhiệm của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp và các tổ chức thành viên của Mặt trận tại Điều 30. Theo đó, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp tham gia quản lý nhà nước về hòa giải ở cơ sở; vận động tổ chức, cá nhân chấp hành pháp luật, giám sát việc thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở; phối hợp kiểm tra, sơ kết, tổng kết và khen thưởng về hòa giải ở cơ sở. Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hướng dẫn Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp tham gia tổ chức thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở. Các tổ chức thành viên của Mặt trận trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình có trách nhiệm thực hiện hoạt động hòa giải ở cơ sở theo quy định của pháp luật.
Bên cạnh đó, hoạt động hòa giải ở cơ sở cũng như các hoạt động xã hội khác đều phải có sự quản lý của Nhà nước. Tuy nhiên, hoạt động hòa giải ở cơ sở là hoạt động mang tính tự nguyện, tự quản của nhân dân, nên quản lý nhà nước không nhằm “hành chính hóa” hoạt động này, mà chủ yếu là tạo ra hành lang pháp lý và những điều kiện thuận lợi cho hoạt động này được duy trì, phát triển. Luật quy định cụ thể về trách nhiệm quản lý nhà nước của Chính phủ, trách nhiệm trực tiếp của Bộ Tư pháp, trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các cấp trong việc thực hiện công tác quản lý nhà nước về hòa giải ở cơ sở tại Điều 28 và Điều 29 của Luật. Các quy định này đã thể hiện sự phân cấp cụ thể giữa cơ quan quản lý nhà nước ở trung ương và địa phương trong quản lý nhà nước về công tác hòa giải ở cơ sở./.
Trần Đình Trữ
Trưởng phòng Pháp chế-Thanh tra thành phố HCM