2. Một số nội dung chủ yếu
2.1. Chương I. Những quy định chung (từ Điều 1 đến Điều 9)
Chương này gồm các quy định chung về khái niệm công đoàn (xác định địa vị pháp lý của công đoàn Việt Nam); phạm vi điều chỉnh; đối tượng áp dụng; giải thích một số từ ngữ; quyền thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn; nguyên tắc thành lập, tổ chức và hoạt động công đoàn; hệ thống tổ chức công đoàn; hợp tác quốc tế về công đoàn; những hành vi bị nghiêm cấm liên quan đến việc thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn.
Xuất phát và kế thừa địa vị pháp lý của công đoàn theo thể chế chính trị đã được xác định, quy định tại Điều 10 của Hiến pháp và tại Điều 1, Điều 2 của Luật Công đoàn năm 1990, Luật Công đoàn 2012 tiếp tục khẳng định công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và người lao động, là thành viên trong hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng; có chức năng đại diện cho cán bộ, công chức, viên chức, công nhân lao động, cùng với cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, xã hội chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích của người lao động; tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội, tham gia thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, doanh nghiệp; tuyên truyền, vận động người lao động học tập nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đây là quy định đặc biệt quan trọng trong Luật Công đoàn để tạo cơ sở thống nhất, nền tảng quy định cụ thể các quyền và trách nhiệm theo lĩnh vực hoạt động của công đoàn tại chương tiếp theo, tạo hành lang pháp lý cho công đoàn thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ theo luật định.
Chương này bổ sung điều mới về: “Giải thích từ ngữ” và “Hệ thống tổ chức công đoàn”. Trong đó, một số từ ngữ liên quan chủ yếu đến thực hiện quyền, trách nhiệm của công đoàn như: Quyền công đoàn; công đoàn cơ sở; công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở; cán bộ công đoàn chuyên trách, không chuyên trách; tranh chấp về quyền công đoàn đã được quy định trong Luật để tạo điều kiện thuận lợi cho việc hiểu và áp dụng thi hành Luật được thống nhất. Việc Luật Công đoàn năm 2012 luật hoá chức danh cán bộ công đoàn không chuyên trách từ Tổ phó tổ công đoàn trở lên đã tạo nền tảng mở rộng quyền được bảo đảm điều kiện hoạt động công đoàn quy định tại chương IV.
Trên cơ sở kế thừa quy định trước đây, Điều 9 Luật Công đoàn năm 2012 đã xác định những hành vi bị nghiêm cấm liên quan đến việc cản trở thành lập và hoạt động công đoàn; phân biệt đối xử với người lao động, cán bộ công đoàn, can thiệp vào tổ chức và hoạt động công đoàn; đồng thời quy định bổ sung thêm hành vi bị nghiêm cấm liên quan lợi dụng quyền công đoàn để vi phạm pháp luật, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp, cá nhân nhằm bảo đảm thêm sự bình đẳng trong chấp hành pháp luật công đoàn của các đối tượng áp dụng Luật.
2.2. Chương II. Quyền, trách nhiệm của công đoàn và đoàn viên công đoàn (từ Điều 10 đến điều 19)
Chương này là một trong những chương quan trọng nhất của Luật, quy định cụ thể các quyền và trách nhiệm theo từng lĩnh vực hoạt động của công đoàn trên cơ sở chức năng của công đoàn đã được Hiến pháp và Điều 1 của Luật quy định; đồng thời luật hoá từ Điều lệ công đoàn các quyền và trách nhiệm của đoàn viên công đoàn.
- Mục I chương này quy định về quyền và trách nhiệm của công đoàn trong việc đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động; tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội; trình dự án luật, pháp lệnh và kiến nghị xây dựng chính sách, pháp luật; tham dự các phiên họp, cuộc họp, kỳ họp và hội nghị; tham gia thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp; tuyên truyền, vận động, giáo dục người lao động; phát triển đoàn viên công đoàn và công đoàn cơ sở; quyền và trách nhiệm của Công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở đối với người lao động ở các cơ quan, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp chưa thành lập được tổ chức Công đoàn cơ sở.
- Mục II chương này quy định về quyền và trách nhiệm của đoàn viên công đoàn; trong đó có quyền được tư vấn pháp luật và trợ giúp pháp lý miễn phí.
Chương này đã quy định cụ thể thêm quyền, trách nhiệm phát triển đoàn viên, thành lập công đoàn cơ sở; quy định tăng thêm trách nhiệm của Công đoàn cấp trên cơ sở trong việc tiếp cận doanh nghiệp để tuyên truyền, vận động, hướng dẫn thành lập công đoàn cơ sở, hỗ trợ giải quyết những khó khăn, hạn chế hiện nay.
Đặc biệt quan trọng là quy định trách nhiệm của Công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở trong việc đại diện, bảo vệ quyền lợi cho người lao động ở các đơn vị, doanh nghiệp chưa thành lập công đoàn. Thông qua đó tạo hành lang pháp lý vững chắc cho Công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở chủ động chuẩn bị các điều kiện cần thiết để từng bước thực hiện tốt trách nhiệm theo quy định của pháp luật.
Đối với quyền, trách nhiệm công đoàn trong quan hệ lao động, Luật quy định khung mang tính nguyên tắc cho phù hợp, cân đối với các lĩnh vực hoạt động khác của công đoàn. Trên cơ sở đó, Bộ luật Lao động sửa đổi, các Nghị định hướng dẫn thi hành và Điều lệ Công đoàn Việt Nam sẽ quy định cụ thể.
2.3. Chương III. Trách nhiệm của nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp đối với Công đoàn (từ Điều 20 đến Điều 22)
Chương này quy định về mối quan hệ giữa công đoàn với nhà nước, cơ quan, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp; trách nhiệm của nhà nước đối với công đoàn; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp đối với công đoàn.
Luật Công đoàn năm 1990 đã có một số quy định trách nhiệm của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị đối với công đoàn liên quan đến việc tôn trọng quyền độc lập về tổ chức và các quyền khác của công đoàn, tăng cường mối quan hệ hợp tác trong mọi hoạt động nhằm mục đích xây dựng cơ quan, đơn vị, xây dựng đất nước và chăm lo lợi ích của người lao động, tạo điều kiện cần thiết cho công đoàn hoạt động; và trên thực tế đã phối hợp với công đoàn thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mỗi bên, góp phần chăm lo đời sống, bảo đảm quyền, lợi ích của người lao động và xây dựng, phát triển đất nước. Tuy nhiên vần còn một số lĩnh vực thuộc trách nhiệm của cơ quan nhà nước như trong công tác tuyên truyền, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật công đoàn; tạo điều kiện cho công đoàn tham gia các hoạt động tố tụng bảo vệ quyền lợi của người lao động trước Toà án, và một số lĩnh vực thuộc trách nhiệm của đơn vị, doanh nghiệp liên quan đến hợp tác, phối hợp với công đoàn trong việc cung cấp thông tin, đối thoại, thương lượng, ký kết, thực hiện thoả ước tập thể, quy chế dân chủ cơ sở; xây dựng quan hệ lao động lành mạnh... chưa được quy định cụ thể, làm ảnh hưởng lớn đến hiệu lực của Luật và hiệu quả hoạt động của công đoàn.
Để giải quyết tồn tại, hạn chế trên, chương này đã quy định các nội dung mang tính nguyên tắc, xác định mối quan hệ hợp tác, phối hợp hoạt động giữa công đoàn với nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp; quy định rõ thêm trách nhiệm của nhà nước, cơ quan nhà nước, tổ chức, doanh nghiệp đối với hoạt động công đoàn. Trong đó, xác định rõ trách nhiệm của nhà nước trong lĩnh vực tuyên truyền, phổ biến pháp luật, thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật công đoàn; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp trong hợp tác, tạo điều kiện, bảo đảm điều kiện hoạt động của công đoàn cơ sở, của cán bộ công đoàn và đặc biệt là phải có nghĩa vụ đóng kinh phí công đoàn theo quy định của Luật này.
Những quy định mới trên đây hết sức quan trọng nhằm hỗ trợ, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của công đoàn và bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.
2.4. Chương IV. Những bảo đảm hoạt động của Công đoàn (từ Điều 23 đến Điều 29)
Chương này quy định về bảo đảm về tổ chức, cán bộ; bảo đảm điều kiện hoạt động công đoàn; bảo đảm cho cán bộ công đoàn; tài chính công đoàn; quản lý, sử dụng, quản lý tài chính công đoàn; tài sản công đoàn.
Xuất phát từ thực tiễn hoạt động công đoàn tại cơ sở và yêu cầu giải quyết những tồn tại, hạn chế của Luật Công đoàn năm 1990 liên quan đến những bảo đảm cho công đoàn hoạt động, Chương này tập trung bổ sung, sửa đổi sáu nội dung lớn:
Một là, xác định có tính nguyên tắc việc bảo đảm về tổ chức và số lượng cán bộ công chức để thực hiện chức năng, quyền và trách nhiệm của công đoàn.
Hai là, bổ sung và mở rộng quy định về thời gian tối thiểu cho hoạt động công đoàn đối với cán bộ công đoàn không chuyên trách tại cơ sở. Theo đó, cán bộ công đoàn có chức danh Chủ tịch, Phó chủ tịch công đoàn cơ sở được sử dụng thời gian trong giờ làm việc 24 giờ trong một tháng; cán bộ công đoàn có chức danh Uỷ viên Ban chấp hành, Tổ trưởng, Tổ phó công đoàn được sử dụng thời gian trong giờ làm việc 12 giờ trong một tháng do doanh nghiệp trả lương, để hoạt động công đoàn.
Quy định trên là rất cần thiết, bởi ngoài Chủ tịch công đoàn thì Phó chủ tịch, Uỷ viên Ban chấp hành, Tổ trưởng, Tổ phó công đoàn là những người liên quan chủ yếu và trực tiếp đến tổ chức thực hiện các nhiệm vụ của công đoàn tại cơ sở, trong đó có nhiệm vụ tuyên truyền, phổ biến chế độ chính sách, pháp luật, tham gia giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp phát sinh trong quan hệ lao động, góp phần quan trọng vào quá trình xây dựng quan hệ lao động hài hoà, ổn định, tiến bộ tại đơn vị, doanh nghiệp. Thông qua đó, nâng cao thêm trách nhiệm của đơn vị, doanh nghiệp đối với tổ chức công đoàn.
Ba là, bổ sung quy định về quyền lợi của cán bộ công đoàn không chuyên trách do cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp trả lương, được hưởng phụ cấp hoạt động công đoàn và khoản phụ cấp này được thực hiện theo quy định cụ thể của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.
Bốn là, bổ sung quy định bảo vệ cán bộ công đoàn về việc làm. Theo đó, cán bộ công đoàn không chuyên trách được gia hạn hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc theo nhiệm kỳ tham gia Ban chấp hành công đoàn cơ sở; đơn vị sử dụng lao động không được tự ý chấm dứt hợp đồng hoặc thuyên chuyển công tác cán bộ công đoàn không chuyên trách nếu không có sự thoả thuận của công đoàn.
Thông qua quy định này, tạo hành lang pháp lý vững chắc hỗ trợ, đáp ứng yêu cầu bảo vệ cán bộ công đoàn, mặt khác tạo thêm điều kiện, vị thế cho công đoàn hoạt động tại cơ sở, hạn chế những hành vi độc quyền của đơn vị sử dụng lao động trong tuyển dụng, sử dụng và chuyển công tác, buộc thôi việc, sa thải những người lao động năng nổ, tích cực hoạt động công đoàn.
Năm là, bảo đảm về tài chính công đoàn
Xuất phát từ địa vị pháp lý, chức năng, quyền và nhiệm vụ của công đoàn, nhà nước cần phải có trách nhiệm bảo đảm đối với công đoàn. Những năm qua, Đảng và chà nước đã quan tâm xây dựng và ban hành nhiều nghị quyết, chính sách, pháp luật liên quan đến cơ chế bảo đảm các điều kiện cần thiết cho công đoàn hoạt động, trong đó có bảo đảm về tài chính công đoàn. Luật Công đoàn năm 1957 và Luật Công đoàn năm 1990 đều đã quy định về tài chính Công đoàn và được thực hiện ổn định cho đến nay, đây là cơ sở pháp lý quan trọng nhằm đảm bảo cho tổ chức công đoàn hoạt động có hiệu quả hơn 50 năm qua. Tuy nhiên, do Luật Công đoàn năm 1990 chỉ quy định chung mang tính nguyên tắc, không quy định cụ thể mà giao cho Chính phủ, Bộ, ngành quy định dưới hình thức Nghị định và Thông tư nên giá trị pháp lý và hiệu lực không cao, làm ảnh hưởng lớn đến hiệu quả hoạt động của công đoàn trong quá trình tổ chức thực hiện các quyền, trách nhiệm theo Luật định; đặc biệt là những bất cập liên quan đến đối tượng đóng kinh phí công đoàn thiếu bình đẳng, mức đóng, nền đóng chưa thống nhất.
Nhằm giải quyết bất cập trên, bảo đảm sự thống nhất, bình đẳng về trách nhiệm của các loại hình doanh nghiệp, hỗ trợ việc thành lập công đoàn cơ sở, giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước; tạo cơ sở pháp lý vững chắc bảo đảm điều kiện vật chất cho tổ chức và hoạt động của công đoàn – đặc biệt là đối với cấp công đoàn cơ sở theo đường lối của Nghị quyết 20-NQ/TW Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 6 (khoá X), Luật đã quy định tất cả các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế không phân biệt nơi đã thành lập hay chưa thành lập công đoàn, đều phải có nghĩa vụ đóng kinh phí công đoàn bằng 2% tính trên quỹ tiền lương làm căn cứ đóng BHXH cho người lao động.
Đây là một nội dung đặc biệt quan trọng, tiến bộ, được xây dựng trên cơ sở lý luận, pháp lý và tổng kết thực tiễn trên 20 năm hoạt động của tổ chức công đoàn. Theo đó, công đoàn không chỉ đại diện, bảo vệ đoàn viên công đoàn mà tất cả người lao động, kể cả người lao động ở những đơn vị, doanh nghiệp chưa thành lập công đoàn; nguồn thu kinh phí công đoàn gắn với nghĩa vụ đóng góp của doanh nghiệp đã được chính thức luật hoá, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho tổ chức công đoàn có điều kiện thực hiện các chức năng, nhiệm vụ to lớn của Đảng và nhà nước giao phó.
Sáu là, bảo đảm nguyên tắc quản lý tài chính công đoàn, tính minh bạch và tăng cường công tác quản lý tài chính của công đoàn vừa theo pháp luật, vừa bảo đảm tính độc lập của công đoàn, Luật xác định rõ các nội dung chi và quy định công đoàn thực hiện quản lý, sử dụng và kiểm tra tài chính công đoàn theo quy định của pháp luật và quy định của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam; cơ quan nhà nước có thẩm quyền giám sát, kiểm tra, kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính công đoàn.
2.5. Chương V. Giải quyết tranh chấp, xử lý vi phạm pháp luật công đoàn (Điều 30 và Điều 31)
Chương này quy định về giải quyết tranh chấp về quyền công đoàn; xử lý vi phạm pháp luật công đoàn.
Đây là quy định mới nhằm giải quyết tồn tại, bất cập của Luật Công đoàn năm 1990. Theo đó, lĩnh vực này quy định hai nội dung mới liên quan đến việc xác định nguyên tắc giải quyết tranh chấp về quyền công đoàn, xử lý vi phạm pháp luật về công đoàn và trách nhiệm của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước thông qua việc ban hành văn bản pháp luật quy định chi tiết việc xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm pháp luật về công đoàn.
Những quy định trên tạo thêm điều kiện cần thiết cho hoạt động của công đoàn, nâng cao hiệu lực của pháp luật, vai trò và vị thế của Công đoàn Việt Nam.
Chương 6. Điều khoản thi hành (Điều 32 và Điều 33): Chương này quy định về hiệu lực thi hành và trách nhiệm hướng dẫn thi hành Luật./.
Trần Đình Trữ