SỐ LƯỢT TRUY CẬP

2
4
4
3
6
1
7
2
Tin tức sự kiện 01 Tháng Ba 2013 3:30:00 CH

(TTTP) ĐỀ CƯƠNG GIỚI THIỆU LUẬT CÔNG ĐOÀN (phần 1)

 

        
Luật Công đoàn được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XIII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 20 tháng 6 năm 2012, được Chủ tịch nước ký lệnh công bố số 10/2012/L-CTN ngày 02 tháng 7 năm 2012. Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2013. Luật có vai trò quan trọng, góp phần điều chỉnh hoạt động công đoàn ở nước ta hiện nay.
Phòng Pháp chế phối hợp với Chi hội Luật gia Thanh tra thành phố giới thiệu một số nội dung cơ bản của Luật như sau:
I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT CÔNG ĐOÀN NĂM 2012
Luật Công đoàn năm 2012 cần thiết được ban hành bởi những lý do sau:
Thứ nhất, xuất phát từ yêu cầu khắc phục những hạn chế, bất cập của Luật Công đoàn năm 1990. Luật Công đoàn năm 1990 có một số điểm không còn phù hợp, đã bộc lộ những hạn chế, bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn đặt ra, thể hiện trên bốn vấn đề lớn:
- Đối tượng, phạm vi điều chỉnh còn hẹp so với tình hình phát triển nhanh của các loại hình doanh nghiệp, sự đa dạng của quan hệ lao động và yêu cầu thực thi hiệu quả quyền công đoàn;
- Chức năng, nhiệm vụ công đoàn còn rộng, dàn trải, thiếu tập trung đã làm ảnh hưởng nhất định đến chất lượng, hiệu quả hoạt động của Công đoàn trong lĩnh vực đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động;
- Thiếu cơ chế bảo đảm thi hành quyền công đoàn trong các lĩnh vực: Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm; cơ chế bảo vệ cán bộ công đoàn, giải quyết tranh chấp về quyền công đoàn. Tính hiệu lực, thống nhất và sự ổn định, vững chắc của kinh phí hoạt động công đoàn không cao.
- Kỹ thuật lập pháp liên quan đến phương pháp tiếp cận, xây dựng và thể hiện các quyền, nghĩa vụ, chức năng, nhiệm vụ của Công đoàn chưa theo một tiêu chí rõ ràng, thống nhất. Trong đó, có những vấn đề tiếp cận theo chức năng của công đoàn, có vấn đề lại tiếp cận theo lĩnh vực hoạt động của công đoàn và nội dung một số điều luật thiếu thống nhất, trùng lặp.         
Những tồn tại, hạn chế trên đây đang là một trong những nguyên nhân làm giảm tính khả thi của Luật và hiệu quả hoạt động của công đoàn, đòi hỏi phải được sửa đổi một cách toàn diện để đáp ứng quá trình phát triển của đất nước thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế; đáp ứng yêu cầu phát triển mạnh mẽ về tổ chức và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của công đoàn trong tình hình mới.
Thứ hai, nhằm thể chế hoá các quan điểm, đường lối của Đảng về hoàn thiện, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 28 tháng 01 năm 2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá X) về: “Tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”.
 Theo đó, phải “Sớm sửa đổi, bổ sung Luật Công đoàn để phù hợp, tương thích với các quy định của Hiến pháp, Bộ luật Lao động, Luật Doanh nghiệp và các văn bản pháp luật có liên quan; xác định rõ vị trí, chức năng, quyền và cơ chế đảm bảo để công đoàn thực hiện tốt chức năng trong thời kỳ mới.”; phát huy vai trò đặc biệt quan trọng của công đoàn trong việc góp phần giữ vững ổn định chính trị xã hội của đất nước.
Thứ ba,bảo đảm tính đồng bộ của pháp luật về công nhân, lao động và công đoàn. Luật Công đoàn năm 1990 được ban hành trước Bộ luật Lao động (được ban hành năm 1994, sửa đổi, bổ sung các năm 2002, 2006, 2007), trong đó quy định các quyền thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn của người lao động, vai trò của công đoàn trong quan hệ lao động và trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc bảo đảm, phối hợp hoạt động đối với công đoàn. Như vậy các quyền cơ bản của công đoàn trên thực tế đã được quy định ở hai Luật tạo nên tình trạng thiếu tập trung thống nhất chung về đối tượng, phạm vi điều chỉnh trong Luật Công đoàn; thiếu đồng bộ với sự thay đổi về khuôn khổ pháp lý lao động liên quan đến hoạt động công đoàn đã được hoàn thiện trong những năm vừa qua.
Vì vậy, Luật Công đoàn năm 1990 cần phải được tiến hành sửa đổi đồng thời với sửa đổi toàn diện Bộ luật Lao động theo Chương trình xây dựng Luật, pháp lệnh của Quốc hội khoá XII, XIII nhằm phân định rõ, hợp lý đối tượng, phạm vi điều chỉnh liên quan đến công đoàn của hai đạo Luật, bảo đảm tính đồng bộ của pháp luật về công nhân, lao động và công đoàn.
Từ những căn cứ trên cho thấy sự cần thiết phải sửa đổi, bổ sung Luật Công đoàn năm 1990 cho phù hợp với sự phát triển của đất nước và của tổ chức Công đoàn trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế.
II. QUAN ĐIỂM, NGUYÊN TẮC XÂY DỰNG LUẬT CÔNG ĐOÀN NĂM 2012
Luật Công đoàn năm 2012 được xây dựng dựa trên những quan điểm, nguyên tắc sau:
- Quán triệt và thể chế hoá các quan điểm, đường lối đổi mới của Đảng trong các Nghị quyết của Đại hội Đảng, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương liên quan đến việc xây dựng, phát triển đất nước, đặc biệt là Nghị quyết số 20-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng về “Tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” gắn liền với yêu cầu xây dựng tổ chức Công đoàn lớn mạnh, phát huy vai trò của Công đoàn trong xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam.
- Bảo đảm phù hợp với quy định hiện hành của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; đồng bộ với Bộ luật Lao động (sửa đổi) nhằm bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của pháp luật về công nhân, lao động và công đoàn. Đồng thời quán triệt Chỉ thị số 22/CT-TW ngày 05 tháng 06 năm 2008 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về “Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo việc xây dựng quan hệ lao động hài hoà, ổn định và tiến bộ trong doanh nghiệp”, góp phần phát triển quan hệ lao động lành mạnh, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
- Kế thừa những nội dung tiến bộ, phù hợp của pháp luật công đoàn hiện hành, pháp điển hoá các quy định về công đoàn trong một số văn bản pháp luật; phát triển thêm những nội dung thuộc quyền, trách nhiệm của công đoàn, nhà nước, các tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp cho phù hợp với điều kiện và yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Tham khảo kinh nghiệm và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế trong việc xây dựng pháp luật về công đoàn; bảo đảm các quy định của Luật Công đoàn phù hợp với thực tiễn Việt Nam, và từng bước phù hợp, tương thích với pháp luật quốc tế.
III. BỐ CỤC VÀ NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA LUẬT CÔNG ĐOÀN NĂM 2012
1. Bố cục
Luật Công đoàn năm 2012 được kết cấu gồm 6 chương, 33 điều. Trong đó, giữ bốn chương của Luật Công đoàn trước đây, bổ sung thêm 2 chương mới: chương III “Trách nhiệm của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp đối với Công đoàn” và chương V “Giải quyết tranh chấp, xử lý vi phạm pháp luật về công đoàn”; tăng 14 điều Luật. Bố cục của Luật cụ thể gồm:
Chương I. Những quy định chung (từ Điều 1 đến Điều 9)
Chương II. Quyền, trách nhiệm của công đoàn và đoàn viên công đoàn (từ Điều 10 đến Điều 19)
Chương III. Trách nhiệm của nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp đối với công đoàn (từ Điều 20 đến Điều 22)
Chương IV. Những bảo đảm hoạt động của công đoàn (từ Điều 23 đến Điều 29)
Chương V. Giải quyết tranh chấp, xử lý vi phạm pháp luật về công đoàn (Điều 30 và Điều 31)
Chương VI. Điều khoản thi hành (Điều 32 và Điều 33)
Thực hiện Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật Công đoàn năm 2012 đã đặt tên 33 điều luật và sắp xếp, thể hiện nội dung cụ thể theo một tiêu chí rõ ràng, thống nhất trên cơ sở các chức năng, quyền và trách nhiệm của công đoàn đã được Hiến pháp, Luật Công đoàn quy định.
Trần Đình Trữ

Số lượt người xem: 5064    

TIN MỚI HƠN

TIN ĐÃ ĐƯA

Tìm kiếm