Luật Bình đẳng giới được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2006. Ngày 12 tháng 12 năm 2006, Chủ tịch nước ký Lệnh công bố số 18/2006/L-CTN. Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2007.
Phòng Pháp chế phối hợp với Chi hội luật gia Thanh tra thành phố giới thiệu một số nội dung cơ bản của Luật như sau:
I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT BÌNH ĐẲNG GIỚI
1. Thể chế hoá quan điểm của Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh về “Nam, nữ bình quyền”, giải phóng phụ nữ, vì sự tiến bộ của phụ nữ; thể chế hoá Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng.
Quan điểm “Nam, nữ bình quyền” của Đảng và Bác Hồ được xác định ngay trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng năm 1930. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định vị trí vai trò của phụ nữ trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta, Người luôn căn dặn các cấp uỷ Đảng, cơ quan, đơn vị phải quan tâm chăm lo công tác vận động phụ nữ, đào tạo bồi dưỡng cán bộ nữ, vì sự nghiệp giải phóng phụ nữ. Gần 77 năm qua, quan điểm đó luôn được quán triệt trong các văn kiện, Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng qua các thời kỳ.
Ngay trong những năm tháng ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, ngày 10/01/1967, Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết số 152-NQ/TW về một số vấn đề tổ chức lãnh đạo công tác phụ vận, chỉ rõ: “Tư tưởng phong kiến đối với phụ nữ còn tồn tại khá sâu sẳc trong một số cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ lãnh đạo. Thể hiện rõ nhất tư tưởng hẹp hòi, “trọng nam khinh nữ”, chưa tin vào khả năng lãnh đạo và khả năng quản lý kinh tế của phụ nữ, chưa thấy hết khó khăn trở ngại của phụ nữ…”
Sau khi đất nước hoàn toàn giải phóng, bước vào thời kỳ mới, việc phát huy hơn nữa vị trí, vai trò của các tầng lớp phụ nữ trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, của nhân dân là yêu cầu, đòi hỏi lớn. Chỉ thị số 44- CT/TW ngày 7/6/1984 của Ban Bí thư về một số vấn đề cấp bách trong công tác cán bộ nữ chỉ rõ: “Nhiều cấp uỷ Đảng và lãnh đạo các ngành buông lỏng việc chỉ đạo thực hiện các nghị quyết của Đảng về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ…còn tư tưởng phong kiến, coi thường phụ nữ, đối xử thiếu công bằng với chị em…”; “Các trường lớp đào tạo, bồi dưỡng trong nước và ngoài nước, khi chiêu sinh cần quy định tỷ lệ nữ một cách thoả đáng; …Các trường lớp tập trung cần tổ chức nhà trẻ, lớp mẫu giáo để chị em có con nhỏ gửi cháu”….
Bước vào thời kỳ đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, ngày 12/7/1993 Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 04-NQ/TW về đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới. Nghị quyết nhấn mạnh: “Xây dựng và sửa đổi, hoàn chỉnh các pháp luật, chính sách xã hội có liên quan đến phụ nữ và lao động nữ... Có chủ trương, chính sách phù hợp đối với phụ nữ dân tộc ít người, phụ nữ tôn giáo, phụ nữ nghèo, phụ nữ đơn thân, phụ nữ tàn tật”...
Chỉ thị số 37-CT/TW ngày 16/5/1994 của Ban Bí thư TW về một số vấn đề công tác cán bộ nữ trong tình hình mới khẳng định: “Cần xây dựng Chiến lược đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng lao động nữ nói chung và cán bộ nữ nói riêng…Chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ nữ làm công tác khoa học- kỹ thuật, kinh tế, pháp luật, hành chính, quản lý nhà nước,...cán bộ nữ dân tộc ít người, tôn giáo, vùng sâu, vùng xa. Các trường lớp đào tạo, bồi dưỡng của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể khi chiêu sinh cần có quy định tỷ lệ nữ một cách thoả đáng, đưa vào chương trình đào tạo những kiến thức về giới...”
Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng chỉ rõ: “Đối với phụ nữ, thực hiện tốt luật pháp và chính sách bình đẳng giới, bồi dưỡng, đào tạo nghề nghiệp, nâng cao học vấn; có cơ chế, chính sách để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các cơ quan lãnh đạo và quản lý ở các cấp, các ngành, chăm sóc và bảo vệ sức khỏe bà mẹ và trẻ em; tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt thiên chức người mẹ; xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc”
Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng tiếp tục khẳng định: “Nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật chất, tinh thần thực hiện bình đẳng giới. Tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt vai trò của người công dân, người lao động, người mẹ, người thầy đầu tiên của con người. Bồi dưỡng, đào tạo để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các hoạt động xã hội, các cơ quan lãnh đạo và quản lý ở các cấp. Chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ bà mẹ, trẻ em. Bổ sung và hoàn chỉnh các chính sách về bảo hộ lao động, bảo hiểm xã hội, thai sản, chế độ đối với lao động nữ. Kiên quyết đấu tranh chống các tệ nạn xã hội và các hành vi bạo lực, xâm hại và xúc phạm nhân phẩm phụ nữ”.
2. Khắc phục những bất cập trong công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về bình đẳng giới và tiến bộ của phụ nữ
Kể từ khi ra đời đến nay, Nhà nước ta đã ban hành bốn bản Hiến pháp (năm 1946, 1959, 1980, 1992- sửa đổi, bổ sung năm 2001), trong đó, ngoài việc quy định chế độ chính trị, bộ máy Nhà nước, các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân..., còn quán triệt và thể chế hoá quan điểm “nam, nữ bình quyền” bằng những quy định cụ thể. Hiến pháp đầu tiên - năm 1946 quy định: “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt nam không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”; “Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện”; “Tất cả công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên không phân biệt gái trai đều có quyền bầu cử…”
Sau nhiều lần bổ sung, sửa đổi đến nay, Điều 63 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Công dân nữ và nam có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình. Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ. Lao động nữ và nam việc làm như nhau thì tiền lương ngang nhau. Lao động nữ có quyền hưởng chế độ thai sản. Phụ nữ là viên chức Nhà nước và người làm công ăn lương có quyền nghỉ trước và sau khi sinh đẻ mà vẫn hưởng lương, phụ cấp theo quy định của pháp luật. Nhà nước và xã hội tạo điều kiện để phụ nữ nâng cao trình độ mọi mặt, không ngừng phát huy vai trò của mình trong xã hội; chăm lo phát triển các nhà hộ sinh, khoa nhi, nhà trẻ và các cơ sở phúc lợi xã hội khác để giảm nhẹ gánh nặng gia đình, tạo điều kiện cho phụ nữ sản xuất, công tác,học tập, chữa bệnh, nghỉ ngơi và làm tròn bổn phận của người mẹ”.
Từ Điều 53 đến Điều 74 Hiến pháp năm 1992 quy định rõ các quyền, nghĩa vụ công dân, trong đó quy định quyền bình đẳng nam, nữ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình.
Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước ta nói chung, pháp luật có liên quan đến bình đẳng giới nói riêng được ban hành, đó là: Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Lao động, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Luật Công đoàn, Luật Thanh niên, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Giáo dục, Luật Khoa học công nghệ, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Báo chí, Luật Phòng, chống ma túy, Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS), Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, Pháp lệnh Phòng, chống mại dâm, Luật Cán bộ, công chức, các Chỉ thị, Nghị định, Nghị quyết của Chính phủ về ban hành Quy chế dân chủ trong hoạt động cơ quan, ở xã, phường, thị trấn...
Theo quy định của các văn bản quy phạm pháp luật trước khi Quốc hội thông qua Luật Bình đẳng giới - tháng 11/2006, công dân nữ, nam có quyền ngang nhau về mọi mặt: Chính trị, kinh tế, lao động, văn hóa, giáo dục, đào tạo, khoa học và công nghệ, y tế và gia đình. Có thể nói, các văn bản quy phạm pháp luật đã quy định tương đối đầy đủ về quyền bình đẳng giữa nam, nữ.
Tuy nhiên, hệ thống pháp luật về bình đẳng giới (trước khi Quốc hội thông qua Luật Bình đẳng giới) còn không ít hạn chế, bất cập. Đó là:
- Quyền bình đẳng nam, nữ được quy định tản mạn, rải rác trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau: Hiến pháp, Bộ luật, Luật, Pháp lệnh, Nghị định, Quyết định, Chỉ thị, Thông tư..., chưa được tập hợp, hệ thống hoá trong một văn bản quy phạm pháp luật chuyên về bình đẳng giới.
- Quy định đối với quyền của công dân nam, nữ trong một số văn bản quy phạm pháp luật, văn bản quản lý hành chính còn chưa thống nhất, chưa quán triệt đầy đủ, triệt để nguyên tắc bình đẳng nam, nữ, không phân biệt đối xử giữa nam và nữ đã được quy định trong Hiến pháp 1992 (Ví dụ: Quy định tuổi quy hoạch, đào tạo cán bộ nam, nữ cách nhau 5 năm; quy định tiêu chuẩn nữ được tuyển dụng làm công chức, viên chức phải có độ tuổi thấp hơn nam, trình độ chuyên môn cao hơn nam, như: nữ đạt khá, giỏi, nam đạt trung bình khá...).
- Hầu hết văn bản quy phạm pháp luật đều xác định đối tượng điều chỉnh chung là “công dân”, “người lao động”, “doanh nghiệp” (do nam hoặc nữ làm chủ doanh nghiệp).., mặc nhiên được hiểu không có sự phân biệt nam, nữ trong các quan hệ xã hội đó.
- Nhiều văn bản tuy có quy định về bình đẳng giới nhưng chỉ lặp lại quy định chung (mang tính chất khung) của Hiến pháp năm 1992, chưa cụ thể hoá trong văn bản chuyên ngành.
- Nhiều quy định mang tính “ưu tiên” cho nữ nhưng đồng thời hạn chế không ít quyền bình đẳng với nam giới về được quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, khen thưởng... khi nữ cán bộ, công chức, viên chức, công nhân lao động thực hiện thai sản, sinh con, nuôi con nhỏ.
- Hầu hết các văn bản mới quan tâm quy định chế độ, chính sách đối với lao động nữ có quan hệ lao động, được trả tiền lương (theo Bộ luật Lao động), chưa quan tâm đầy đủ đến cả lao động nam, nữ nông nghiệp, nông thôn hoặc lao động tự do ở đô thị.
- Hệ thống pháp luật hiện hành nhìn chung còn thiếu quy định chế tài xử lý các hành vi vi phạm về bình đẳng giới, một số văn bản tuy có quy định nhưng chưa đủ mạnh để ngăn chặn, xử lý các vi phạm pháp luật về bình đẳng giới.
3. Khắc phục tình trạng phân biệt đối xử về giới và những khoảng cách giới trong thực tế
Hơn 60 năm kể từ khi Nhà nước ban hành bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946 đến nay, sự nghiệp “giải phóng phụ nữ”, “nam, nữ bình quyền”, vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam ngày càng thu được nhiều thành tựu. Trong hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, Việt Nam không ngừng vươn lên phát triển về mọi mặt và ngày càng khẳng định vị thế trên trường quốc tế. Trong bối cảnh đó, phụ nữ Việt Nam luôn vững vàng, cùng sát cánh với nam giới nỗ lực thi đua, phấn đấu và đóng góp công sức, trí tuệ để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hiện nay, đã có không ít phụ nữ làm công tác lãnh đạo, quản lý, tham gia các cơ quan dân cử. Việt Nam hiện dẫn đầu các nước châu Á và đứng thứ 18 trên thế giới về tỷ lệ nữ tham gia Quốc hội; số lượng nữ Chủ tịch và tương đương, Phó Chủ tịch cấp tỉnh tăng so với nhiệm kỳ trước. Tỷ lệ nữ ngày càng tăng trong Uỷ ban nhân dân các cấp.
Báo cáo đánh giá tình hình giới ở Việt Nam (tháng 12/2006) của Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển Châu á (ADB), Vụ phát triển quốc tế Anh (DFID), Cơ quan phát triển quốc tế Canada (CIDA) nhận xét: “Việt Nam là một trong những nước dẫn đầu thế giới về tỷ lệ phụ nữ tham gia các hoạt động kinh tế, là một trong những nước tiến bộ hàng đầu về bình đẳng giới...Với việc các kế hoạch quốc gia khi xây dựng đều chú ý đến vấn đề giới, chắc chắn việc bình đẳng giới sẽ đạt được các bước tiến xa hơn nữa”...Chỉ số phát triển giới (GDI) của Việt Nam tăng từ 0,668 (năm 1998) lên 0,708% (năm 2004), đứng thứ 80/136 quốc gia và hầu như không có sự chênh lệch với chỉ số phát triển con người...”
Tuy nhiên, trên thực tế việc thực thi pháp luật về bình đẳng giới còn nhiều hạn chế, tạo nên khoảng cách giới cần sớm khắc phục. Đó là:
- Không ít người trong xã hội vẫn tồn tại định kiến giới và tư tưởng trọng nam hơn nữ, như: Thích sinh con trai hơn con gái; cha mẹ muốn để lại tài sản cho con trai nhiều hơn; nhiều người quan niệm việc bếp núc, dọn dẹp nhà cửa, chăm sóc con cái, nội trợ…là của giới nữ; việc kiếm tiền, xây nhà cửa, quan hệ xã hội …là của giới nam. Vì vậy, ngay từ khi còn ở với cha mẹ và sau khi lấy chồng, phụ nữ thường có ít thời gian để học tập, nghỉ ngơi, giải trí, tham gia các hoạt động xã hội như nam giới.
- Cơ hội tiếp cận giáo dục của trẻ em gái và phụ nữ dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa, vùng núi cao còn nhiều khó khăn, trở ngại hơn so với trẻ em trai và nam giới ở cùng địa bàn đó, bởi nhiều trường hợp trẻ em gái phải lao động giúp đỡ gia đình, không có điều kiện đi học xa nhà, ở nội trú, nhiều trường hợp khác theo phong tục phải lấy chồng sớm…
- Không ít cán bộ các cấp, ngành, cơ quan, đơn vị chưa nhận thức đúng vị trí, vai trò của phụ nữ, có tư tưởng coi thường, chưa quan tâm bố trí, đào tạo và sử dụng cán bộ nữ, thậm chí gây khó khăn cản trở sự tiến bộ của phụ nữ. Vì vậy mặc dù tỷ lệ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý tăng đáng kể những năm gần đây, song thực tế còn thấp, chưa tương xứng với tiềm năng lực lượng phụ nữ trong xã hội.
- Trong sản xuất nông nghiệp hoặc thương mại dịch vụ, phụ nữ ít có cơ hội được tham gia tập huấn, nâng cao trình độ chuyên môn, tay nghề nên phần lớn phụ nữ chỉ được làm các công việc giản đơn, thiếu ổn định, thu nhập thấp (chỉ bằng 79% so với nam giới)…;
- Việc chăm sóc sức khoẻ đối với phụ nữ, nhất là sức khoẻ sinh sản cho nữ dân tộc thiểu số còn hạn chế; số ca nạo phá thai trong nữ thanh niên và vị thành niên vẫn gia tăng; việc lây nhiễm HIV/AIDS từ mẹ sang con vẫn chưa giảm;
- Tình trạng bạo lực, ngược đãi phụ nữ trong gia đình vẫn tồn tại ở cả đô thị và nông thôn, trong tất cả các nhóm xã hội. Không ít người quan niệm đó là việc riêng, nội bộ của gia đình nên chưa có biện pháp ngăn chặn, xử lý nghiêm minh.
- Do tác động của mặt trái cơ chế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế, vấn đề buôn bán phụ nữ qua biên giới, ra nước ngoài, môi giới kết hôn bất hợp pháp đang trở nên bức xúc trong xã hội.
- Trong thực thi pháp luật, nhiều trường hợp chưa được quan tâm xem xét xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới theo quy định của pháp luật hành chính và hình sự .
4. Tiếp tục khẳng định quyết tâm của Việt Nam trong thực hiện mục tiêu bình đẳng giới, hội nhập khu vực và quốc tế
Bình đẳng giới là một mục tiêu quan trong trong các văn kiện quốc tế về quyền con người, đặc biệt là Công ước liên hợp quốc về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW), Công ước Quốc tế về quyền trẻ em (CRC), các Mục tiêu Thiên niên kỷ…Việt Nam đã ký, tham gia các Công ước quốc tế nói trên. Việc Việt Nam ban hành Luật Bình đẳng giới thể hiện quyết tâm trong việc xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với nam, nữ, là câu trả lời đầy đủ nhất về các khuyến nghị của Uỷ ban CEDAW với Việt Nam trong việc thực hiện Công ước CEDAW.
Trên thế giới hiện có rất nhiều nước, kể cả nước phát triển và đang phát triển đã ban hành các đạo luật về bình đẳng giới và tiến bộ của phụ nữ, như: Úc, Thụy Điển, Nhật Bản, Hàn Quốc, Phần Lan, Đan Mạch, Lào, Trung Quốc,…Việc xây dựng Luật Bình đẳng giới có sự tham khảo, chọn lọc kinh nghiệm hay của các nước trong khu vực và trên thế giới, phù hợp với đặc điểm, điều kiện Việt Nam.
Có thể nói, việc xây dựng Luật bình đẳng giới nhằm tiếp tục thể chế hoá quan điểm của Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh, khắc phục những bất cập trong xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, thực thi pháp luật, góp phần nội luật hóa, khẳng định quyết tâm của Việt Nam thực hiện các cam kết với quốc tế về quyền con người, xóa bỏ mọi hình thức phân biệt với phụ nữ.
Trần Đình Trữ
Trưởng phòng Pháp chế