SỐ LƯỢT TRUY CẬP

2
4
8
9
5
9
7
6
Tin tức sự kiện 31 Tháng Bảy 2012 10:00:00 SA

(TTTP) Đề cương giới thiệu Luật Tố tụng Hành chính (Phần 2)

 

           II. NHỮNG ĐIỂM MỚI CƠ BẢN CỦA LUẬT TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH

            1. Về khái niệm “Quyết định hành chính”

            Theo quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính thì “quyết định hành chính” là quyết định bằng văn bản của các cơ quan hành chính nhà nước hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính.

            Do quy định về việc giải thích thuật ngữ “quyết định hành chính” như trên của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, nên dẫn đến thực tế có nhiều cách hiểu khác nhau về “quyết định hành chính”.

            Từ các cách hiểu khác nhau, nên việc thi hành trên thực tế là chưa được thống nhất. Để khắc phục tồn tại nêu trên, Luật Tố tụng hành chính đã quy định rất cụ thể thế nào là quyết định hành chính là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án: “quyết định hành chính là văn bản do cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc người có thẩm quyền trong các cơ quan, tổ chức đó ban hành, quyết định về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể” (khoản 1 Điều 3).

            2. Về các khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án

            Điều 28 Luật TTHC quy định những khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo hướng loại trừ, cụ thể là, Tòa án có thẩm quyền giải quyết các khiếu kiện sau đây:

            “1. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính, trừ các quyết định hành chính, hành vi hành chính thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong các lĩnh vực quốc phòng , an ninh, ngọai giao theo danh mục do Chính phủ quy định và các quyết định hành chính, hành vi hành chính mang tính nội bộ của các cơ quan, tổ chức.

            2. Khiếu nại về danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân.

            3. Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc công chức giữ chức vụ từ Tổng Cục trưởng và tương đương trở xuống.

            4. Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh”.

            Việc quy định thẩm quyền của Tòa án giải quyết các khiếu kiện hành chính theo phương án loại trừ là phù hợp với tinh thần của Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đó là “Mở rộng thẩm quyền xét xử của Tòa án đối với các khiếu kiện hành chính”; đồng thời, cũng phù hợp với quy định của Luật Khiếu nại, Tố cáo; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân, cơ quan, tổ chức; đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế. Đây là điểm đổi mới quan trọng của Luật TTHC so với Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính.

3. Về quyền khởi kiện vụ án hành chính

Luật TTHC quy định cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện vụ án hành chính đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc trong trường hợp không đồng ý với quyết định, hành vi đó hoặc đã khiếu nại với người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, nhưng hết thời hạn giải quyết khiếu nại theo quy định của pháp luật về khiếu nại mà khiếu nại không được giải quyết hoặc đã được giải quyết, nhưng không đồng ý với việc giải quyết khiếu nại về quyết định, hành vi đó.

Đây là quy định mới của Luật TTHC. Cá nhân, cơ quan, tổ chức nếu không đồng ý với quyết định hành chính, hành vi hành chính thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính ra Tòa án, không đặt ra điều kiện phải khiếu nại đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu rồi mới có quyền khởi kiện ra Tòa án như quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính.

Trường hợp cá nhân, cơ quan, tổ chức lựa chọn việc khiếu nại tại cơ quan hành chính thì khi hết thời hạn giải quyết theo quy định của pháp luật mà khiếu nại không được giải quyết hoặc đã được giải quyết nhưng họ không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu (hoặc lần hai) thì họ vẫn có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án.

            Quy định nêu trên của Luật TTHC là nhằm dành cho người khởi kiện quyền tự do lựa chọn khiếu nại tại cơ quan hành chính hay khởi kiện vụ án tại Tòa án mà không bắt buộc phải qua thủ tục khiếu nại trước khi khởi kiện. Quy định này được coi là bước đổi mới căn bản về điều kiện, cơ chế giải quyết khiếu kiện hành chính ở nước ta theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị là “… đổi mới mạnh mẽ thủ tục giải quyết các khiếu kiện hành chính tại Tòa án; tạo thuận lợi cho người dân tham gia tố tụng …”.

            4. Về thời hiệu khởi kiện

            Luật TTHC quy định thời hiện khởi kiện đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc là 01 năm, kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc.

            Theo quy định tại Điều 30 của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính thì thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính là 30 ngày hoặc 45 ngày tùy theo từng trường hợp. Có thể nói, quy định thời hiệu như Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính là quá ngắn, cá nhân, cơ quan, tổ chức không có đủ thời gian để chuẩn bị chứng cứ, lựa chọn, nhờ tư vấn trước khi khởi kiện… Tuy nhiên, nếu quy định như thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự (02 năm) thì quá dài, không phù hợp với tính chất đặc thù của việc giải quyết các khiếu kiện hành chính. Vì vậy, việc quy định thời hiệu khởi kiện của Luật TTHC (Điều 104) là phù hợp, bảo đảm cho cá nhân, cơ quan, tổ chức có thời gian chuẩn bị tốt cho việc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án và phù hợp với tính chất đặc thù của khiếu kiện hành chính.

            5. Về xác định thẩm quyền trong trường hợp vừa có đơn khiếu nại, vừa có đơn khởi kiện

            Điều 31 Luật TTHC quy định: Trường hợp người khởi kiện có đơn khởi kiện vụ án hành chính tại tòa án có thẩm quyền, đồng thời có đơn khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thì thẩm quyền giải quyết theo sự lựa chọn của người khởi kiện.

            Đây cũng là quy định mới so với pháp luật hiện hành. Quy định như Luật TTHC là thể hiện tính dân chủ của Nhà nước ta, thể hiện sự tôn trọng việc tự lựa chọn của người khởi kiện, bảo đảm quyền và lợi ích cho người khởi kiện.

            6. Chứng minh và chứng cứ trong tố tụng hành chính

            Đây cũng là một trong những nội dung quan trọng của Luật TTHC quy định cụ thể quyền, nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, chứng minh của đương sự và nhiệm vụ của Tòa án thu nhập chứng cứ trong tố tụng hành chính.

            a) Về quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh của đương sự

            Theo quy định tại Điều 8 và Điều 72 Luật TTHC thì đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Tòa án và chứng minh yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.

            Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án hành chính, đương sự có quyền và nghĩa vụ giao nộp chứng cứ cho Tòa án; nếu đương sự không nộp hoặc nộp không đầy đủ thì phải chịu hậu quả của việc không nộp hoặc nộp không đầy đủ đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác (khoản 1 Điều 77).

            Việc quy định như trên sẽ nâng cao trách nhiệm của đương sự trong việc chứng minh và giao nộp chứng cứ cho Tòa án bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc hành chính được chính xác, kịp thời.

            b) Về trách nhiệm của Tòa án xác minh, thu nhập chứng cứ

            Luật TTHC quy định Tòa án tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ trong những trường hợp do Luật này quy định. Thủ tục thu thập chứng cứ được quy định cụ thể tại Điều 78 và các điều tương ứng khác của Luật TTHC; cụ thể là:

- Trường hợp đương sự không thể tự mình thu thập được chứng cứ và có yêu cầu hoặc xét thấy cần thiết, Tòa án có thể tự mình hoặc ủy thác tiến hành xác minh thu thập chứng cứ để làm rõ các tình tiết của vụ án. Các biện pháp xác minh, thu thập chứng cứ bao gồm: Lấy lời khai của đương sự; lấy lời khai người làm chứng; đối chất; xem xét, thẩm định tại chỗ; trưng cầu giám định; quyết định định giá tài sản, thẩm định giá tài sản; ủy thác thu thập chứng cứ; yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp chứng cứ.

- Trường hợp đương sự đã áp dụng các biện pháp cần thiết để thu thập chứng cứ mà không thể tự mình thu thập được thì có thể yêu cầu Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hành chính đúng đắn. Đương sự yêu cầu Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ phải làm đơn ghi rõ vấn đề cần chứng minh, chứng cứ cần thu thập và lý do vì sao tự mình không thu thập được.

Tòa án có thể trực tiếp hoặc bằng văn bản yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu trữ cung cấp cho mình chứng cứ.

c) Về trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu, chứng cứ cho đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát

Luật TTHC quy định cụ thể cá nhân, cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm cung cấp đầy đủ và đúng thời hạn cho đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát tài liệu, chứng cứ mà mình đang lưu giữ, quản lý khi có yêu cầu của đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát; trường hợp không cung cấp được thì phải thông báo bằng văn bản cho đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát biết và nêu rõ lý do của việc không cung cấp được tài liệu, chứng cứ. Thời hạn cung cấp chứng cứ cho Tòa án, Viện kiểm sát là 15 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu của Tòa án, Viện kiểm sát.

Quy định này rất cần thiết, ràng buộc trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức, tạo điều kiện cho Tòa án sớm thu thập được chứng cứ để giải quyết nhanh và chính xác vụ án hành chính.

7. Về việc yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời

Kế thừa các quy định về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính; tham khảo các quy định về biện pháp khẩn cấp tạm thời của Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật TTHC quy định quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời Điều 60. Các căn và mục đích của việc yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời được quy định cụ thể.

Trong quá trình giải quyết vụ án, biện pháp khẩn cấp tạm thời được áp dụng để tạm thời giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ chứng cứ, bảo toàn tình trạng hiện có tránh gây thiệt hại không thể khắc phục được hoặc bảo đảm việc thi hành án.

Điểm mới về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Luật TTHC là quy định người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không phải thực hiện biện pháp bảo đảm. Sở dĩ Luật quy định như vậy là vì về nguyên tắc, khi đã ra trước Tòa án, các bên đương sự đều bình đẳng trước pháp luật. Nếu quy định người dân khi yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải thực hiện biện pháp bảo đảm, thì đối với người bị kiện là cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước khi yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời cũng phải thực hiện biện pháp bảo đảm.

Với tính chất đặc thù của khiếu kiện hành chính – bên khởi kiện là cá nhân, cơ quan, tổ chức, còn bên bị kiện là cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước thì có thể thấy rằng bên khởi kiện thường có phần yếu thế hơn so với bên bị kiện. Vì vậy, nếu quy định người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải thực hiện biện pháp bảo đảm thì có phần hạn chế quyền của người dân được yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ, đặc biệt là đối với đương sự thuộc diện nghèo, điều kiện kinh tế khó khăn…

8. Về sự tham gia tố tụng hành chính của Viện Kiểm sát nhân dân

a) Về quyền khởi tố vụ án của Viện Kiểm sát nhân dân

Điểm mới so với quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính là Luật TTHC không quy định quyền khởi tố vụ án hành chính của Viện Kiểm sát nhân dân. Việc không quy định quyền khởi tố vụ án hành chính của Viện Kiểm sát nhân dân trong Luật TTHC xuất phát từ những lý do:

Theo quy định của Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và của Luật Tố tụng hành chính hiện hành thì Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan cơ quan tiến hành tố tụng, Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân là người tiến hành tố tụng tại phiên tòa; do đó, nếu quy định Viện kiểm sát nhân dân có quyền khởi tố vụ án hành chính với vai trò của người tham gia tố tụng là không phù hợp với chức năng của Viện Kiểm sát.

Mặt khác, mặc dù Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã quy định thẩm quyền này cho Viện Kiểm sát, nhưng thực tiễn 14 năm qua, Viện Kiểm sát nhân dân chưa khởi tố vụ án hành chính nào.

Luật TTHC không quy định quyền khởi tố vụ án hành chính của Viện kiểm sát nhân dân, nhưng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của một số đối tượng nhất định, Luật đã bổ sung quyền của Viện kiểm sát nhân dân trong việc kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền cử người giám hộ đứng ra khởi kiện vụ án hành chính để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đối tượng đó; cụ thể là: Đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, nếu họ không có người khởi kiện thì Viện kiểm sát nhân dân có quyền kiến nghị Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú cử người giám hộ đứng ra khởi kiện vụ án hành chính để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho người đó (khoản 3 Điều 23).

b) Về phát biểu của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tại phiên tòa

Điểm mới của Luật TTHC so với quy định hiện hành về phát biểu của Kiểm sát viên là: Tại phiên tòa sơ thẩm, Kiểm sát viên tham gia phiên tòa không phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân về việc giải quyết vụ án, cụ thể là: Sau khi những người tham gia tố tụng phát biểu tranh luận và đối đáp xong, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng hành chính, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án (Điều 160).

Quy định như vậy vừa bảo đảm Viện kiểm sát thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mình trong tố tụng hành chính, phù hợp với từng giai đoạn tố tụng, vừa bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.

9. Về sự có mặt của đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tại phiên tòa

Điều 131 Luật TTHC quy định sự có mặt của đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tại phiên tòa, theo đó, Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất, đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải có mặt; trường hợp có người vắng mặt thì Hội đồng xét xử hoãn phiên tòa, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

Trường hợp Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà đương sự hoặc người đại diện của họ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng thì hậu quả sẽ là:

- Đối với người khởi kiện, người đại diện theo pháp luật mà không có người đại diện tham gia phiên tòa thì bị coi là từ bỏ việc khởi kiện và Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu khởi kiện của người đó, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Người khởi kiện có quyền khởi kiện lại, nếu thời hiệu khởi kiện vẫn còn;

- Đối với người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập mà không có người đại diện tham gia phiên tòa thì Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt họ;

- Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập mà không có người đại diện tham gia phiên tòa thì bị coi là từ bỏ yêu cầu độc lập của mình và Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu độc lập của người đó, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có quyền khởi kiện lại đối với yêu cầu độc lập đó, nếu thời hiệu khởi kiện vẫn còn;

- Đối với người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt họ.

Quy định trên đây của Luật TTHC là cần thiết nhằm bảo đảm cho sự có mặt tại Tòa án, tại phiên tòa của những người tham gia tố tụng nêu trên theo giấy triệu tập của Tòa án, thể hiện nghĩa vụ tôn trọng Tòa án của họ.

10. Về thẩm quyền của Hội đồng xét xử sơ thẩm

Đây cũng là quy định mới của Luật TTHC so với Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, theo đó, khi giải quyết vụ án hành chính, Hội đồng xét xử sơ thẩm có quyền quyết định:

- Bác yêu cầu khởi kiện, nếu yêu cầu đó không có căn cứ pháp luật;

- Chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện, tuyên hủy một phần hoặc toàn bộ quyết định hành chính trái pháp luật; buộc cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật;

- Chấp  nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện, tuyên bố một số hoặc toàn bộ các hành vi hành chính là trái pháp luật; buộc cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước chấm dứt hành vi trái pháp luật;

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện, tuyên hủy quyết định kỷ luật buộc thôi việc trái pháp luật; buộc người đứng đầu cơ quan, tổ chức thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật;

- Chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện, tuyên hủy một phần hoặc toàn bộ quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh trái pháp luật; buộc cơ quan, người có thẩm quyền ra quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh giải quyết lại vụ việc theo quy định của Luật Cạnh tranh;

- Chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện; buộc cơ quan lập danh sách cử tri sửa đổi, bổ sung danh sách cử tri theo quy định của pháp luật;

- Buộc cơ quan, tổ chức bồi thường thiệt hại, khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức bị xâm phạm do quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh trái pháp luật gây ra;

- Kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, người đứng đầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét trách nhiệm của cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền của cơ quan nhà nước.

Việc quy định cụ thể thẩm quyền của Hội đồng xét xử như trên sẽ bảo đảm cho bản án, quyết định của Tòa án được cụ thể, rõ ràng, tạo điều kiện cho việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính được thuận lợi, có hiệu quả; đồng thời, giúp cho việc xác định trách nhiệm đối với người không chấp hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án được dễ dàng hơn.

11. Về thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm

Điểm mới so với các quy định hiện hành về thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là Luật TTHC quy định thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm thông thường là 02 năm, kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Đối với trường hợp đương sự có đơn đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm trong thời hạn 01 năm, kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật nhưng quá thời hạn 02 năm, kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật mới phát hiện bản án, quyết định của Tòa án có sai lầm nghiêm trọng thì người có quyền kháng nghị vẫn được kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.

12. Về xem xét lại quyết định của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao

Điều 239 và Điều 240 của Luật TTHC quy định quyết định của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao khi có căn cứ xác định có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc phát hiện tình tiết quan trọng mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung quyết định mà Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, đương sự không biết được khi ra quyết định đó thì được xem xét lại nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

- Theo yêu cầu của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

- Theo kiến nghị của Ủy ban Tư pháp của Quốc hội;

- Theo kiến nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao;

- Theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Đây là điểm mới của Luật TTHC so với các quy định của pháp luật hiện hành. Luật TTHC quy định cơ chế cho phép Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao tự xem xét lại quyết định của mình là xuất phát từ yêu cầu thực tiễn công tác xét xử của Tòa án và trên tinh thần Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Việc quy định như vậy là nhằm mục đích bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức.

13. Về thi hành án hành chính

Luật TTHC quy định cụ thể về việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính, bao gồm: Những bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính được thi hành; giải thích bản án, quyết định của Tòa án; thi hành bản án, quyết định của Tòa án; yêu cầu thi hành bản án, quyết định của Tòa án; trách nhiệm thực hiện yêu cầu thi hành án; quản lý nhà nước về thi hành án hành chính; xử lý vi phạm trong thi hành án hành chính và kiểm tra việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án.

Có thể nói, các quy định cụ thể về trách nhiệm của người phải thi hành bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính, về quyền yêu cầu thi hành của người được thi hành án, trách nhiệm thực hiện yêu cầu về thi hành án cũng như việc đôn đốc, kiểm sát trong công tác thi hành án hành chính…. là để khắc phục những tồn tại, vướng mắc trong việc thi hành án hành chính trong thời gian qua và bảo đảm hiệu quả của việc thi hành án, quyết định của Tòa án trên thực tế.

Ngoài những điểm mới trên thì với quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật là “Một văn bản quy phạm pháp luật có thể được ban hành để đồng thời sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ, bãi bỏ nội dung trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật do cùng một cơ quan ban hành”, Luật TTHC đã có một điều sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đất đai.

Điều 264 Luật TTHC đã “sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai”, đó là sửa đổi khoản 2 Điều 136 và Điều 138 của Luật Đất đai năm 2003. Theo đó, đương sự không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc một trong các giấy tờ quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 50 Luật Đất đai khi có tranh chấp quyền sử dụng đất nếu không đồng ý với quyết định giải quyết của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện hoặc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thì đương sự có thể lựa chọn tiếp tục khiếu nại lên cơ quan hành chính cấp trên hoặc khởi kiện ra Tòa hành chính.

Tại khoản 2 Điều 264 Luật TTHC (sửa khoản 2 Điều 138 Luật Đất đai 2003): “Trình tự, thủ tục giải quyết khiếu kiện QĐHC, HVHC về đất đai thực hiện theo quy định của Luật Tố tụng hành chính”. Như vậy, Luật TTHC đã tạo ra sự thống nhất trong việc giải quyết các khiếu kiện đối với các QĐHC, HVHC về quản lý đất đaicũng như sự thống nhất với quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo 2005. Do đó, góp phần bảo đảm tính khả thi của Luật TTHC.

 

Trần Đình Trữ

Trưởng phòng Pháp chế - TTTP. HCM

 


Số lượt người xem: 8594    

TIN MỚI HƠN

TIN ĐÃ ĐƯA

Tìm kiếm